Có rất nhiều quan điểm khác nhau về vấn đề trách nhiệm hình sự. Quan điểm thứ nhất, trách nhiệm hình sự được hiểu là “hậu quả pháp lý của việc phạm tội thể hiện ở chỗ người đã gây tội phải chịu trách nhiệm trước Nhà nước”[2]. Quan điểm thứ hai cho rằng: “Trách nhiệm hình sự là một dạng trách nhiệm pháp lý, là trách nhiệm của người khi thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội được quy định trong pháp luật hình sự bằng một hậu quả bất lợi do Tòa án áp dụng tùy thuộc vào tính chất và mức độ nguy hiểm của hành vi mà người đó thực hiện”[3]. Quan điểm thứ ba lại hiểu: “Trách nhiệm hình sự là một dạng của trách nhiệm pháp lý bao gồm nghĩa vụ phải chịu sự tác động của hoạt động truy cứu trách nhiệm hình sự, chịu bị kết tội, chịu biện pháp cưỡng chế của trách nhiệm hình sự (hình phạt, biện pháp tư pháp) và mang án tích”[4].
Điểm chung trong nhận thức của các nhà nghiên cứu về trách nhiệm hình sự là một dạng của trách nhiệm pháp lý và là hậu quả pháp lý của việc thực hiện tội phạm. Bản chất của trách nhiệm hình sự là sự lên án của Nhà nước đối với người có lỗi khi thực hiện một hành vi nguy hiểm cho xã hội mà luật hình sự quy định là tội phạm, là sự phản ứng của Nhà nước đối với tội phạm[5]. Với ý nghĩa là phản ứng của Nhà nước đối với tội phạm, nội dung cụ thể của trách nhiệm hình sự phải là những tác động pháp lý bất lợi được quy định trong luật hình sự mà người phạm tội phải gánh chịu trước Nhà nước vì đã thực hiện một tội phạm. Những tác động bất lợi đó là bị Nhà nước lên án bằng một bản án kết tội, phải chịu hình phạt, chịu tác động bất lợi khác về hình sự. Như vậy: “Trách nhiệm hình sự là một dạng của trách nhiệm pháp lý, là hậu quả pháp lý của việc phạm tội thể hiện ở trách nhiệm của người phạm tội trước Nhà nước phải chịu những tác động pháp lý bất lợi được quy định trong luật hình sự do Tòa án áp dụng theo một trình tự tố tụng nhất định”[6].
Trong tình hình hiện nay, khi dịch bệnh Covid-19 đang lây lan và bùng phát trên phạm vi cả nước, việc phòng, chống dịch bệnh Covid-19 cần có sự chung tay vào cuộc của cả hệ thống chính trị và toàn thể nhân dân. Đảng và Nhà nước ta đã đề ra nhiều chủ trương, có nhiều văn bản chỉ đạo nhằm thực hiện tốt các biện pháp phòng, chống, kiểm soát tình trạng lây nhiễm trong cộng đồng, tuy nhiên, thời gian qua vẫn xuất hiện một số hành vi vi phạm pháp luật liên quan đến công tác phòng, chống dịch bệnh Covid -19. Nhiều hành vi vi phạm có dấu hiệu tội phạm, gây ảnh hưởng xấu đến tình hình an ninh, trật tự; gây hoang mang, lo lắng, bất bình trong xã hội. Những hành vi vi phạm pháp luật trong phòng, chống dịch bệnh Covid-19 không chỉ đi ngược lại với mục đích bảo vệ tính mạng, sức khoẻ và sự an toàn của nhân dân, mà còn thể hiện thái độ coi thường phát luật, chính vì vậy, cần phải trừng trị nghiêm những cá nhân, tổ chức vi phạm để răn đe, cảnh tỉnh chung những ai đang, đã và sẽ có ý định thực hiện hành vi vi phạm phải dừng lại. Liên quan đến các hành vi vi phạm pháp luật trong phòng, chống dịch bệnh Covid-19, vấn đề trách nhiệm hình sự đối với các vi phạm pháp luật về phòng chống dịch Covid-19 đang là vấn đề nhận được nhiều sự quan tâm. Như vậy, có thể hiểu, trách nhiệm hình sự đối với các vi phạm pháp luật trong phòng, chống dịch bệnh Covid-19 là một dạng của trách nhiệm pháp lý, là hậu quả pháp lý của việc phạm tội liên quan đến phòng, chống dịch bệnh Covid-19, thể hiện ở trách nhiệm của người phạm tội trước Nhà nước phải chịu những tác động pháp lý bất lợi được quy định trong luật hình sự do Tòa án áp dụng theo một trình tự tố tụng nhất định.
Để góp phần ngăn chặn sự gia tăng phức tạp của dịch bệnh Covid-19 trong thời điểm hiện nay, ngày 30/03/2020, Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao ban hành Công văn số 45/TANDTC-PC hướng dẫn áp dụng pháp luật và tổ chức xét xử đối với một số hành vi vi phạm pháp luật phổ biến có đủ yếu tố cấu thành tội phạm trong phòng, chống dịch bệnh, như sau:
1. Tội làm lây lan dịch bệnh truyền nhiễm nguy hiểm cho người (Điều 240 BLHS):
Người đã được thông báo mắc bệnh; người nghi ngờ mắc bệnh hoặc trở về từ vùng có dịch bệnh Covid-19 đã được thông báo cách ly thực hiện một trong các hành vi sau đây gây lây truyền dịch bệnh Covid-19 cho người khác thì bị coi là trường hợp thực hiện “hành vi khác làm lây lan dịch bệnh nguy hiểm cho người” và bị xử lý về tội làm lây lan dịch bệnh truyền nhiễm cho người:
- Trốn khỏi nơi cách ly;
- Không tuân thủ quy định về cách ly;
- Từ chối, trốn tránh việc áp dụng biện pháp cách ly, cưỡng chế cách ly;
- Không khai báo y tế, khai báo không đầy đủ hoặc khai báo gian dối.
Hành vi khác làm lây lan dịch bệnh nguy hiểm cho người được quy định tại điểm c Khoản 1 Điều 240 Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017). Người phạm tội này bị phạt tiền từ 50 triệu đến 200 triệu đồng hoặc phạt tù từ 01 năm đến 05 năm.
2. Tội vi phạm quy định về an toàn lao động, vệ sinh lao động, về an toàn ở nơi đông người (Điều 295 BLHS)
Người chưa bị xác định mắc bệnh Covid-19 nhưng sống trong khu vực đã có quyết định cách ly, quyết định phong tỏa thực hiện một trong các hành vi sau đây gây thiệt hại từ 100 triệu đồng trở lên do phát sinh chi phí phòng, chống dịch bệnh thì bị xử lý về tội vi phạm quy định về an toàn ở nơi đông người:
- Trốn khỏi khu vực bị cách ly, khu vực bị phong tỏa;
- Không tuân thủ quy định cách ly;
- Từ chối, trốn tránh việc áp dụng biện pháp cách ly, cưỡng chế cách ly;
- Không khai báo y tế, khai báo không đầy đủ hoặc khai báo gian dối.
Chủ cơ sở kinh doanh, người quản lý cơ sở kinh doanh dịch vụ (như quán ba, vũ trường, karaoke, dịch vụ mát-xa, cơ sở thẩm mỹ...) thực hiện hoạt động kinh doanh khi đã có quyết định tạm đình chỉ hoạt động kinh doanh để phòng chống dịch bệnh Covid-19 của cơ quan, người có thẩm quyền, gây thiệt hại từ 100 triệu đồng trở lên do phát sinh chi phí phòng, chống dịch bệnh thì bị xử lý về tội vi phạm quy định về an toàn ở nơi đông người.
Tội vi phạm quy định về an toàn lao động, vệ sinh lao động, về an toàn ở nơi đông người được quy định tại Điều 295 Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017). Tùy tính chất và mức độ vi phạm, người phạm tội có thể bị phạt tiền từ 20 triệu đến 100 triệu đồng, phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 03 tháng đến 12 năm. Ngoài ra, người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 10 triệu đồng đến 50 triệu đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm.
3. Tội đưa hoặc sử dụng trái phép thông tin mạng máy tính, mạng viễn thông (Điều 288 BLHS)
Người có hành vi đưa lên mạng máy tính, mạng viễn thông thông tin giả mạo, thông tin sai sự thật, thông tin xuyên tạc về tình hình dịch bệnh Covid-19, gây dư luận xấu thì bị xử lý về tội đưa hoặc sử dụng trái phép thông tin mạng máy tính, mạng viễn thông.
Tội đưa hoặc sử dụng trái phép thông tin mạng máy tính, mạng viễn thông được quy định tại Điều 288 Bộ luật hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017. Tùy tính chất và mức độ vi phạm, người phạm tội có thể bị phạt tiền từ 20 triệu đến 01 tỷ đồng, phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc bị phạt tù từ 06 tháng đến 07 năm. Ngoài ra, người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 20 triệu đến 200 triệu đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm.
4. Tội làm nhục người khác (Điều 155 BLHS)
Người có hành vi đưa trái phép thông tin cá nhân, bí mật đời tư xúc phạm nghiêm trọng nhân phẩm, danh dự của nhân viên y tế, người tham gia phòng, chống dịch bệnh Covid-19, người mắc bệnh, người nghi ngờ mắc bệnh Covid-19 thì bị xử lý về tội làm nhục người khác.
Tội làm nhục người khác được quy định tại Điều 155 Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017). Tùy tính chất và mức độ vi phạm, người phạm tội có thể bị phạt cảnh cáo, phạt tiền từ 10 triệu đến 30 triệu đồng hoặc phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm; hoặc bị phạt tù từ 03 tháng đến 05 năm. Ngoài ra, Người phạm tội còn có thể bị cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm.
5. Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản (Điều 174 BLHS)
Người có hành vi lợi dụng dịch bệnh Covid-19 đưa ra thông tin không đúng sự thật về công dụng của thuốc, vật tư y tế về phòng, chống dịch bệnh nhằm chiếm đoạt tài sản của người khác thì bị xử lý về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản.
Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản được quy định tại Điều 174 Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017). Tùy tính chất và mức độ vi phạm, người phạm tội có thể bị phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 20 năm hoặc tù chung thân. Ngoài ra, người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 10 triệu đến 100 triệu đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm hoặc tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản.
6. Tội buôn lậu (Điều 188 BLHS)
Người có hành vi đã, đang hoặc nhằm đưa trái phép thuốc, vật tư y tế dùng vào việc phòng, chống dịch bệnh Covid-19 ra khỏi biên giới nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam nhằm thu lợi bất chính thì bị xử lý về tội buôn lậu.
Tội buôn lậu được quy định tại Điều 188 Bộ luật hình sự năm 2015(sửa đổi, bổ sung năm 2017). Tùy tính chất và mức độ vi phạm, người phạm tội có thể bị phạt tiền từ 50 triệu đến 05 tỷ đồng hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 20 năm. Ngoài ra, người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 20 triệu đến 100 triệu đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm hoặc tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản. Pháp nhân thương mại phạm tội này, tùy tính chất và mức độ vi phạm thì có thể bị phạt tiền từ 300 triệu đến 15 tỷ đồng hoặc đình chỉ hoạt động có thời hạn từ 06 tháng đến 03 năm hoặc bị đình chỉ hoạt động vĩnh viễn. Ngoài ra, Pháp nhân thương mại còn có thể bị phạt tiền từ 50 triệu đến 300 triệu đồng, cấm kinh doanh, cấm hoạt động trong một số lĩnh vực nhất định hoặc cấm huy động vốn từ 01 năm đến 03 năm.
7. Tội đầu cơ (Điều 196 BLHS)
Người có hành vi lợi dụng sự khan hiếm hoặc tạo sự khan hiếm giả tạo trong tình hình dịch bệnh Covid-19 để mua vét hàng hóa đã được cơ quan nhà nước có thẩm quyền công bố là mặt hàng bình ổn giá hoặc hàng hóa được Nhà nước định giá nhằm bán lại để thu lợi bất chính thì bị xử lý về tội đầu cơ.
Tội đầu cơ được quy định tại Điều 196 Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017). Tùy tính chất và mức độ vi phạm, người phạm tội có thể bị phạt tiền từ 30 triệu đến 05 tỷ đồng hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 15 năm. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 20 triệu đến 200 triệu đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm. Pháp nhân thương mại phạm tội thì tùy tính chất và mức độ vi phạm có thể bị phạt tiền từ 100 triệu đến 09 tỷ đồng. Ngoài ra, pháp nhân thương mại còn có thể cấm hoạt động trong một số lĩnh vực nhất định hoặc cấm huy động vốn từ 01 năm đến 03 năm.
8. Tội chống người thi hành công vụ (Điều 330 BLHS)
Người có hành vi dùng vũ lực, đe dọa dùng vũ lực hoặc thủ đoạn khác cản trở người thi hành công vụ trong phòng, chống dịch bệnh Covid-19 thì bị xử lý về tội chống người thi hành công vụ.
Tội chống người thi hành công vụ quy định tại Điều 330 Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017). Tùy tính chất và mức độ vi phạm, người phạm tội có thể bị phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 07 năm.
9. Tội thiếu trách nhiệm gây hậu quả nghiêm trọng (Điều 360 BLHS)
Người có trách nhiệm trong phòng, chống dịch bệnh Covid-19 nhưng không triển khai hoặc triển khai không kịp thời, không đầy đủ các biện pháp phòng, chống dịch bệnh theo quy định gây hậu quả nghiêm trọng thì bị xử lý về tội thiếu trách nhiệm gây hậu quả nghiêm trọng.
Tội thiếu trách nhiệm gây hậu quả nghiêm trọng được quy định tại Điều 360 Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017). Tùy tính chất và mức độ vi phạm, người phạm tội có thể bị phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 12 năm. Ngoài ra, người phạm tội còn bị cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm.
Ngoài ra, công văn còn hướng dẫn về áp dụng hình phạt, biện pháp tư pháp: Áp dụng hình phạt nghiêm khắc đối với trường hợp phạm tội gây hậu quả nghiêm trọng (như làm lây lan dịch bệnh cho từ 02 người trở lên, làm chết người...); Áp dụng hình phạt chính là hình phạt tiền, cải tạo không giam giữ hoặc phạt tù nhưng cho hưởng án treo theo đúng quy định của pháp luật đối với trường hợp phạm tội chưa gây ra hậu quả hoặc gây hậu quả ít nghiêm trọng (như chưa làm lây lan dịch bệnh); Ngoài việc áp dụng hình phạt chính, Tòa án xem xét áp dụng hình phạt bổ sung và biện pháp tư pháp theo quy định của Bộ luật Hình sự./.
----------------------------------
[2] GS.TSKH Đào Trí Úc, Mô hình lý luận về BLHS Việt Nam (Phần chung), NXB Khoa học xã hội, Hà Nội 1993, tr. 41.
[3] GS.TS Đỗ Ngọc Quang, Tìm hiểu trách nhiệm hình sự đối với các tội phạm về tham nhũng trong luật hình sự Việt Nam. NXB Công an nhân dân, Hà Nội 1997, tr. 14.
[4] GS.TS Nguyễn Ngọc Hòa (Chủ biên) Trường Đại học Luật Hà Nội, Giáo trình Luật Hình sự Tập 1, NXB Công an nhân dân, Hà Nội 2015, tr. 244.
[5] PGS.TS Kiều Đình Thụ, Tìm hiểu luật hình sự Việt Nam, NXB Thành phố Hồ Chí Minh 2000, tr. 66.
[6] Trường Đại học Luật TPHCM, Giáo trình luật hình sự Việt Nam phần chung, NXB Hồng Đức, năm 2019, tr. 84.
Tác giả: Thượng uý, Ths Phan Dũng Định - Khoa Luật
- Bế giảng Huấn luyện đầu khóa sinh viên trúng tuyển đào tạo hệ Văn bằng 2 (27.07.2022)
- Bộ trưởng Tô Lâm thăm và tặng quà các gia đình thương binh, liệt sĩ (26.07.2022)
- Đảng ủy Công an Trung ương, Bộ Công an dâng hương tại Khu di tích lịch sử Nha Công an Trung ương (26.07.2022)
- Kết quả họp xét công nhận đạt tiêu chuẩn chức danh PGS tại Hội đồng Giáo sư cơ sở Trường ĐH.CSND (25.07.2022)
- Trao thưởng cho 20 đoàn viên Công đoàn CAND tiêu biểu năm 2021 (22.07.2022)
- Xứng danh 16 chữ vàng (20.07.2022)
- Mối quan hệ đặc biệt Việt Nam - Lào không ngừng phát triển và đơm hoa kết trái (19.07.2022)
- Trường đại học CSND đạt giải Ba toàn đoàn cuộc thi viết về Lực lượng CSND (18.07.2022)
- Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng gửi Thư chúc mừng lực lượng Cảnh sát nhân dân Việt Nam (18.07.2022)