Trụ sở chính: 36 Nguyễn Hữu Thọ - Phường Tân Phong - Quận 7 - TP. Hồ Chí Minh

Tìm hiểu quy định của pháp luật quốc tế và pháp luật Việt Nam về bình đẳng giới

Ngày đăng: 22.11.2022

Bình đẳng giới (BĐG) và việc thực hiện chính sách, pháp luật về BĐG đã được Đảng và Nhà nước ta quan tâm ngay từ ngày đầu mới giành được độc lập. Trong bản Hiến pháp đầu tiên (năm 1946) đã khẳng định rõ “nam nữ bình quyền” và cho đến nay luôn là nhiệm vụ quan trọng để chăm lo và phát triển nguồn lực con người (hướng đến cả nam giới và nữ giới) trở thành một nhân tố quyết định thành công của sự nghiệp đổi mới đất nước. Để thực hiện tốt chủ trương, chính sách pháp luật về BĐG yêu cầu đâu tiên là mỗi cá nhân phải nắm vững các quy định của pháp luật về BĐG. Trong phạm vi bài viết này, tác giả tập trung trình bày hai nội dung cơ bản: (1) Pháp luật quốc tế về BĐG và, (2) Quy định của pháp luật Việt Nam về BĐG.

 

Ảnh minh họa

 

1. Pháp luật quốc tế về bình đẳng giới

Hiến chương Liên hiệp quốc (LHQ) năm 1945 lần đầu tiên khẳng định sự bình đẳng về các quyền giữa phụ nữ và nam giới. Tuyên ngôn thế giới về quyền con người năm 1948 xác lập nguyên tắc nền tảng là tất cả mọi người đều được hưởng các quyền và tự do một cách bình đẳng, không có bất cứ sự phân biệt nào về chủng tộc, dân tộc, giới tính, tôn giáo, ngôn ngữ, quan điểm chính trị và các yếu tố khác (Điều 1 và Điều 2). Tiếp theo Tuyên ngôn thế giới về quyền con người, nhiều điều ước quốc tế riêng đã được LHQ thông qua nhằm bảo vệ các quyền của phụ nữ và trẻ em gái như: Công ước về trấn áp việc buôn người và bóc lột mại dâm người khác năm 1949; Công ước về các quyền chính trị của phụ nữ năm 1952; Công ước về quốc tịch của phụ nữ khi kết hôn năm 1957; Công ước về đăng ký kết hôn, tuổi tối thiểu khi kết hôn và việc kết hôn tự nguyện năm 1962; Tuyên bố và cương lĩnh hành động Bắc Kinh; Công ước của Liên hợp quốc về Xóa bỏ mọi hình thức phân biệt đối xử với phụ nữ (CEDAW) (Việt Nam đã gia nhập công ước này năm 1981); Công ước khung của Liên Hợp Quốc về Biến Đổi Khí Hậu; Công ước số 100 của ILO về Trả công bình đẳng giữa lao động nam và lao động nữ, năm 1951 (Việt Nam đã gia nhập công ước này năm 1997); Công ước số 111 của ILO về Không phân biệt đối xử (trong việc làm và nghề nghiệp), năm 1958 (Việt Nam đã gia nhập công ước này năm 1997… Nguyên tắc bình đẳng nam nữ cũng được khẳng định trong cả hai điều ước quốc tế quan trọng nhất về quyền con người năm 1966 là Công ước về các quyền chính trị, dân sự (ICCPR) và Công ước về các quyền kinh tế, văn hóa, xã hội (ICESCR)…. Trong đó, có thể khái quát một số văn kiện quan trọng sau đây:

- Tuyên bố và cương lĩnh hành động Bắc Kinh. Tuyên bố và cương lĩnh hành động Bắc Kinh được thông qua tại Hội nghị thế giới về Phụ nữ lần thứ 4 tại Bắc Kinh ngày 15, tháng 2 năm 1995. Tuyên bố được xây dựng dựa trên các hội nghị trước đây của Liên Hợp Quốc và các hội nghị cấp cao (về phụ nữ ở Nairobi 1985, về trẻ em ở New York 1990, về môi trường và phát triển tại Rio de Janeiro 1992, về quyền con người tại Vienna 1993, về dân số và phát triển tại Cairo 1994, và về sự phát triển xã hội tại Copenhagen 1995). Các nước thành viên thông qua tuyên bố cam kết đảm bảo quan điểm về giới được phản ánh trong tất cả các chính sách và chương trình của họ. Cương lĩnh hành động là khung hành động và nhiệm vụ của Chính phủ về lồng ghép giới để đạt được bình đằng giới.

- Công ước về xóa bỏ mọi hình thức phân biệt đối xử với phụ nữ (CEDAW). Công ước về xóa bỏ tất cả các hình thức phân biệt đối xử chống phụ nữ được Đại Hội đồng Liên hợp quốc thông qua ngày 18 tháng 12 năm 1979 và có hiệu lực ngày 3 tháng 9 năm 1981. Tính đến tháng 8 năm 2008 đã có 185 quốc gia trên thế giới là thành viên của CEDAW. Việt Nam ký tham gia Công ước này ngày 29 tháng 7 năm 1980, phê chuẩn ngày 30 tháng 11 năm 1981 và chính thức có hiệu lực thi hành ngày 19 tháng 3 năm 1982. CEDAW là một trong 9 công ước quan trọng nhất trong hệ thống văn kiện quốc tế về quyền con người, và là văn kiện chủ chốt nhất trong số những văn kiện quốc tế tập trung vào vấn đề bình đẳng giới và quyền con người của phụ nữ. Công ước này được thiết kế để chống lại sự phân biệt đối xử chống lại phụ nữ, xác định nhiều lĩnh vực cụ thể có ý nghĩa và quan trọng chống phân biệt đối xử đối với phụ nữ. Công ước chỉ rõ những mục tiêu cụ thể cũng như những công cụ cần thiết để tạo ra một xã hội an toàn mang tính toàn cầu, nơi mà phụ nữ có thể hưởng trọn sự bình đằng đối với nam giới và do đó đảm bảo đầy đủ các quyền con người của họ.

CEDAW đã chỉ ra những lĩnh vực mà phụ nữ có thể bị phân biệt đối xử nặng nề trong việc hưởng thụ các quyền con người để từ đó yêu cầu các quốc gia thành viên xác định những cách thức hoặc biện pháp để xóa bỏ sự phân biệt đối xử đó. Mặc dù vậy, cần lưu ý là CEDAW không quy định các quyền con người mới của phụ nữ, vì các văn kiện quốc tế trước đó đã xác định phụ nữ và nam giới bình đẳng về vị thế và các quyền con người. Thay vào đó, CEDAW đề ra những cách thức, biện pháp nhằm loại trừ sự phân biệt đối xử chống lại phụ nữ trong việc hưởng thụ các quyền con người mà họ đã được thừa nhận trong những văn kiện quốc tế trước đó. Cụ thể, CEDAW chỉ ra những lĩnh vực mà có sự phân biệt đối xử nặng nề với phụ nữ như hôn nhân gia đình, quan hệ dân sự, lao động việc làm, đời sống chính trị, giáo dục đào tạo, đồng thời xác định những cách thức, biện pháp để xóa bỏ những sự phân biệt đối xử đó.

- Công ước khung của Liên Hợp Quốc về Biến Đổi Khí Hậu. Công ước khung Liên Hợp Quốc về Biến đổi khí hậu được thông qua vào năm 1992 tại Hội nghị thượng đỉnh Trái Đất Rio và có hiệu lực 2 năm sau đấy, vào năm 1994. Mục tiêu cuối cùng của Công ước khung của Liên Hợp Quốc về Biến Đổi Khí Hậu là sự ổn định của nồng độ khí nhà kính trong khí quyển ở mức có thể ngăn ngừa những can thiệp nguy hiểm từ sự phát triển của con người với hệ thống khí hậu. Công ước khung được thực hiện thông qua Nghị định thư Kyoto. Nghị định thư Kyoto được thành lập năm 1997 nhưng chỉ có hiệu lực năm 2005. Cả Công ước khung và Nghị định thư Kyoto đều không liên hệ gì tới giới. Vấn đề giới cuối cùng được đề cập trong kỳ họp thứ 7 của Hội nghị các bên (COP) năm 2001 và từ COP 16 năm 2010 trở đi. Tất cả các phiên họp COP đã đưa ra một quyết định quạn trọng về vấn đề giới theo Công ước Khung.

2. Quy định của pháp luật Việt Nam về bình đẳng giới

Mỗi một lĩnh vực nhất định sẽ do pháp luật chuyên ngành điều chỉnh như pháp luật về hình sự, dân sự, hành chính kinh tế, đất đai, hôn nhân và gia đình…Tuy nhiên, Bình đẳng giới không phải là lĩnh vực, mà là một nội dung bao trùm và lồng ghép trong các lĩnh vực khác nhau. Vì vậy pháp luật về BĐG hiểu theo nghĩa rộng bao hàm tất cả các quy phạm pháp luật nhằm bảo đảm bình đẳng giới trong mọi lĩnh vực của đời sống xã hội  và gia đình. Theo nghĩa hẹp, theo pháp luật về bình đẳng giới là tập hợp các văn bản quy phạm pháp luật điều chỉnh trực tiếp vấn đề bình đẳng giới.

- Bình đẳng giới là quyền hiến định. Nguyên tắc bình đẳng đã đuợc khẳng định ngay trong Hiến pháp Việt Nam năm 1946 “tất cả các công dân Việt Nam đều ngang quyền về mọi phương diện chính trị, kinh tế, văn hoá" “đàn bà ngang quyền với đàn ông về mọi phương diện'  và đuợc tái khẳng định trong Hiến pháp năm 1992 “công dân nam nữ có quyền ngang nhau về mọi mặt: chính trị, kinh tế, văn hoá và gia đình. Nghiêm cấm mọi hành vi phân biệt đối xử với phụ nữ, xúc phạm nhân phẩm người phụ nữ”. Hiến pháp năm 2013 quy định: “1. Công dân nam, nữ bình đẳng về mọi mặt. Nhà nước có chính sách bảo đảm quyền và cơ hội bình đẳng giới; 2. Nhà nước, xã hội và gia đình tạo điều kiện để phụ nữ phát triển toàn diện, phát huy vai trò của mình trong xã hội; 3. Nghiêm cấm phân biệt đối xử về giới” (Điều 26).

- Luật Bình đẳng giới năm 2006 khẳng định: “Mục tiêu bình đẳng giới là xoá bỏ phân biệt đối xử về giới, tạo cơ hội như nhau cho nam và nữ trong phát triển kinh tế - xã hội”. Luật Bình đẳng giới quy định nguyên tắc bình đẳng giới trong các lĩnh vực của đời sống xã hội và gia đình, biện pháp bảo đảm bình đẳng giới, trách nhiệm của cơ quan, tổ chức, gia đình, cá nhân trong việc thực hiện bình đẳng giới và được áp dụng đối với cơ quan nhà nước, tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức chính trị xã hội - nghề nghiệp, tổ chức xã hội, tổ chức xã hội - nghề nghiệp, tổ chức kinh tế, đơn vị sự nghiệp, đơn vị vũ trang nhân dân, gia đình và công dân Việt Nam; cũng như cơ quan, tổ chức nước ngoài, tổ chức quốc tế hoạt động trên lãnh thổ Việt Nam, cá nhân nước ngoài cư trú hợp pháp tại Việt Nam.

- Bình đẳng giới còn được lồng ghép trong nhiều lĩnh vực, được thể hiện trong nhiều văn bản quy phạm pháp luật khác nhau như: Bộ luật Lao động năm 2019 dành hẳn một chương quy định về lao động nữ. Theo đó, Nhà nước có chính sách bảo đảm quyền làm việc bình đẳng của lao động nữ; khuyến khích người sử dụng lao động tạo điều kiện để lao động nữ có việc làm thường xuyên, áp dụng rộng rãi chế độ làm việc theo thời gian biểu linh hoạt, làm việc không trọn thời gian, giao việc làm tại nhà; có biện pháp tạo việc làm, cải thiện điều kiện lao động… Pháp luật hôn nhân và gia đình khẳng định nguyên tắc vợ, chồng bình đẳng. Đặc biệt, Bộ luật Hình sự hiện hành còn thể hiện sự khoan hồng và tính nhân đạo của Đảng và Nhà nước ta trong xử lý tội phạm là nữ: người phạm tội là phụ nữ có thai được quy định là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự; không áp dụng hình phạt tử hình đối với phụ nữ có thai hoặc đối với phụ nữ đang nuôi con dưới 36 tháng tuổi khi phạm tội hoặc khi bị xét xử; không thi hành án tử hình đối với phụ nữ có thai hoặc nuôi con dưới 36 tháng tuổi…

- Các văn bản, chiến lược, chính sách khác liên quan đến Bình đẳng giới:

+ Chương trình hành động của chính phủ giai đoạn đến năm 2020 thực hiện Nghị quyết số 11-NQ/TW ngày 27 tháng 4 năm 2007 của Bộ Chính trị về công tác phụ nữ thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước (Ban hành kèm theo Nghị quyết số 57/NQ-CP ngày 01 tháng 12 năm 2009 của Chính phủ) với mục tiêu nâng cao nhận thức, trách nhiệm và hiệu quả quản lý của các cơ quan hành chính nhà nước ở Trung ương và địa phương đối với công tác phụ nữ, thực hiện bình đẳng giới nhằm phấn đấu đến năm 2020, phụ nữ được nâng cao trình độ về mọi mặt, có trình độ học vấn, chuyên môn, nghiệp vụ đáp ứng yêu cầu công nghiệp hoá, hiện đại hoá và hội nhập kinh tế quốc tế; có việc làm, được cải thiện rõ rệt về đời sống vật chất, văn hoá, tinh thần; tham gia ngày càng nhiều hơn vào công việc xã hội, bình đẳng trên mọi lĩnh vực; đóng góp ngày càng lớn hơn cho xã hội và gia đình. Phấn đấu để nước ta là một trong các quốc gia có thành tựu bình đẳng giới tiến bộ nhất của khu vực.

+ Chiến lược quốc qia về bình đẳng giới giai đoạn 2011-2020 (được phê duyệt tại Quyết định số 2351/QĐ-TTg ngày 24 tháng 12 năm 2010 của Thủ tướng Chính phủ) với Mục tiêu tổng quát là đến năm 2020, về cơ bản, bảo đảm bình đẳng thực chất giữa nam và nữ về cơ hội, sự tham gia và thụ hưởng trên các lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hóa và xã hội, góp phần vào sự phát triển nhanh và bền vững của đất nước và các mục tiêu cụ thể.

+ Nghị quyết số 28/NQ-CP ngày 03/3/2021 của Chính phủ ban hành Chiến lược quốc gia về BĐG giai đoạn 2021–2030, trong đó nhấn mạnh mục tiêu tổng quát: “Tiếp tục thu hẹp khoảng cách giới, tạo điều kiện, cơ hội để phụ nữ và nam giới tham gia, thụ hưởng bình đẳng trong các lĩnh vực của đời sống xã hội, góp phần vào sự phát triển bền vững của đất nước” và thực hiện 6 mục tiêu cụ thể: Mục tiêu 1: Trong lĩnh vực chính trị; Mục tiêu 2: Trong lĩnh vực kinh tế, lao động; Mục tiêu 3: Trong đời sống gia đình và phòng ngừa, ứng phó với bạo lực trên cơ sở giới; Mục tiêu 4: Trong lĩnh vực y tế; Mục tiêu 5: Trong lĩnh vực giáo dục, đào tạo; Mục tiêu 6: Trong lĩnh vực thông tin, truyền thông”.

Với khung pháp lý về bình đẳng giới nói trên cùng với sự với nỗ lực của cả hệ thống chính trị, Việt Nam được đánh giá là quốc gia xóa bỏ khoảng cách giới nhanh nhất trong 20 năm qua và được xếp ở nhóm các quốc gia có bình đẳng giới tốt nhất trên thế giới. Tuy nhiên, chênh lệch giữa nam và nữ trong các lĩnh vực kinh tế, chính trị - xã hội, gia đình theo xu hướng nữ giới là nhóm yếu thế vẫn tồn tại khá phổ biến. Bình đẳng giới thực chất chỉ đạt được khi có khung pháp luật hoàn thiện và thực thi nghiêm túc trong thực tiễn. Nhưng, để thực hiện được điều này thì vấn đề cốt lõi, then chốt là sự chuyển biến nhận thức của toàn xã hội về vai trò, vị thế phụ nữ trong gia đình và xã hội. Ngành giáo dục phải xây dựng chương trình hành động nhằm định hướng, thay đổi hành vi của nam và nữ từ giáo dục mầm non, tiểu học, theo đó nam và nữ có vị trí, vai trò ngang nhau, được tạo điều kiện và cơ hội phát huy năng lực, thụ hưởng như nhau những thành quả của sự phát triển.

 

Tài liệu tham khảo

1. Quốc hội, Hiến pháp năm 2013.

2. Quốc hội, Luật Bình đẳng giới năm 2016.

3. Quốc hội, Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014.

4. Trường Đại học luật TP.HCM (2020), Hệ thống văn bản pháp luật quốc tế về bình đẳng giới, Nxb Hồng Đức.

5. Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội, Báo cáo rà soát tình hình thực hiện Chiến lược Quốc gia về bình đẳng giới giai đoạn 2011 –2020. Hà Nội, 2021.

6. Chính phủ, Nghị quyết số 28/NQ-CP ngày 03/3/2021 của Chính phủ ban hành Chiến lược Quốc gia về bình đẳng giới giai đoạn 2021 – 2030.

Tác giả: ThS. Huỳnh Trung Hậu

Copyrights © 2020 TRƯỜNG ĐẠI HỌC CẢNH SÁT NHÂN DÂN
  • Ngày: 52
  • Tuần: 458
  • Tháng: 262
  • Tổng: 1100200