Trong chương trình đào tạo bậc đại học Cảnh sát nhân dân (CSND), các môn Nghiệp vụ cơ bản có vị trí quan trọng với khối lượng kiến thức lớn, đa dạng nhưng thời gian cho học viên nghiên cứu các môn này không nhiều, điều này đòi hỏi học viên phải tích cực tự học, tự nghiên cứu mới có thể đáp ứng được yêu cầu, đặc biệt trong thời đại chuyển đổi số như hiện nay.
Những năm qua, phong trào tự học, tự nghiên cứu, tự rèn luyện của học viên Trường Đại học CSND đã có nhiều chuyển biến tích cực, học viên hăng hái nghiên cứu khoa học, tham gia câu lạc bộ do các khoa chuyên ngành phụ trách. Tuy nhiên, bên cạnh đó, nhiều học viên vẫn chưa nhận thức được tầm quan trọng của việc tự nghiên cứu, tự học ở bậc đại học để nắm chắc kiến thức cơ sở ngành của các môn nghiệp vụ cơ bản, dẫn đến kết quả học tập những môn này còn hạn chế. Trong bài viết, chúng tôi đề cập đến một số vấn đề về thực trạng hoạt động tự học, tự nghiên cứu các môn nghiệp vụ cơ bản của học viên Trường Đại học CSND, những khó khăn, hạn chế và đề xuất giải pháp góp phần nâng cao hiệu quả hoạt động này thời gian tới.
1. Một số vấn đề về thực trạng tự học, tự nghiên cứu các môn nghiệp vụ cơ bản của học viên Trường Đại học Cảnh sát nhân dân
Thực chất, tự nghiên cứu là quá trình sử dụng các thao tác tư duy để tiến hành hoạt động nhận thức một cách độc lập, chủ động của chủ thể nhằm nắm bắt bản chất tri thức khoa học, thoả mãn nhu cầu nhận thức, định hướng để hoàn thiện các kỹ năng nghề nghiệp phục vụ cho hoạt động chuyên môn trong thực tiễn sau này. Khi tự học, tự nghiên cứu, học viên phải vận dụng các thao tác tư duy một cách độc lập, tích cực, chủ động, vận dụng hết khả năng, sức lực của mình và tận dụng mọi thời gian, điều kiện có thể để tự tìm tòi, nghiên cứu nâng cao trình độ nhận thức về lĩnh vực học tập. Với khối lượng kiến thức các môn nghiệp vụ cơ bản là rất lớn, đóng vai trò quan trọng và với yêu cầu ngày càng cao của quy trình đào tạo sĩ quan Cảnh sát nhân dân, mỗi một học viên phải giải quyết đồng thời nhiều mâu thuẫn như thời gian học tập cho các môn hạn hẹp với lượng kiến thức phải tiếp thu; thời lượng giảng lý thuyết của giảng viên trên lớp ngày càng rút ngắn với nhiệm vụ học tập ngày càng nhiều; phải đầu tư cho khối kiến thức lý luận chính trị, pháp luật, nghiệp vụ, kỹ thuật vừa phải dành thời gian cho hoạt động rèn luyện thể chất, quân sự, võ thuật, thể dục, thể thao cũng như các hoạt động phong trào, đoàn thể khác… Chính vì thế, mỗi học viên phải hết sức nỗ lực, tự giác, biến quá trình học tập thành quá trình tự học, tự nghiên cứu. Mặc dù hoạt động tự học, tự nghiên cứu các môn nghiệp vụ cơ bản của học viên đã có nhiều chuyển biến tích cực, nhưng vẫn chưa đáp ứng được yêu cầu và còn bộc lộ một số hạn chế, khó khăn sau đây:
- Nhiều học viên còn thụ động trong quá trình học tập, chưa có kế hoạch tự học, tự nghiên cứu cho cả quá trình và cho từng môn học cụ thể, còn lúng túng trong việc xác định phương pháp tự nghiên cứu, tự học. Điều này thể hiện ở việc học viên không đọc kỹ, nắm chắc kế hoạch học tập toàn khoá do Phòng Quản lý đào tạo và Bồi dưỡng nâng cao triển khai, chưa thực sự chú ý đến kế hoạch môn học, kế hoạch bài giảng. Từ đó học viên không nắm được vị trí, yêu cầu và tổng quan của môn học nên không có ý thức chủ động tìm tòi, không có kế hoạch tự nghiên cứu, tự học để đáp ứng yêu cầu kiến thức của môn học; các em chủ yếu học theo thói quen thụ động “đến đâu hay đến đó”.
Hiện nay, nhiều giảng viên đã rất nỗ lực đổi mới phương pháp, các tiết học lý thuyết trên giảng đường thường được kết hợp với thuyết trình, đàm thoại, tự trao đổi, làm việc nhóm, giờ Xêmina, thảo luận, bài tập giao học viên tự chủ chuẩn bị, trình bày hiểu biết, nêu vấn đề, trao đổi, tranh luận để cùng làm rõ. Phần lớn học viên hứng thú và thích ứng tốt nhờ nghiên cứu, tìm tòi trước kiến thức trong các tư liệu, học liệu mà giảng viên đã hướng dẫn, nhưng cũng có nhiều học viên cảm thấy khó khăn, thậm chí sợ phải tương tác với giảng viên, sợ phải trao đổi với các bạn, sợ các giờ xêmina, thảo luận. Nguyên nhân của vấn đề này phần lớn là do các em không chuẩn bị, không tự nghiên cứu, tự học dẫn tới thiếu tự tin về kiến thức, ấp úng trong cách biểu đạt, thiếu động lực thay đổi, thậm chí sợ phải đổi mới phương pháp học dẫn đến kết quả học tập không thực sự hiệu quả.
- Các môn nghiệp vụ cơ bản thuộc khối kiến thức cơ sở ngành và được sắp xếp giảng dạy cho học viên năm nhất, năm hai, tuy nhiên ở giai đoạn này nhiều học viên chưa có thói quen đọc tài liệu và nghiên cứu mà chủ yếu dựa vào những bài giảng trên lớp của giảng viên, thậm chí coi đây là nguồn cung cấp, trang bị kiến thức duy nhất. Đối với những học viên có ý thức tìm các tài liệu, tự đọc và nghiên cứu nhưng do mới ở năm thứ nhất, thứ hai, các em chưa biết cách tổng hợp kiến thức thu thập được qua việc nghiên cứu tài liệu, chưa biết cách khái quát, đối chiếu, so sánh kiến thức, chưa biết chuyển hoá, bổ sung kiến thức giữa bài giảng trên lớp với nội dung kiến thức từ tài liệu nghiên cứu. Điều này dẫn đến việc nghiên cứu tài liệu mang tính chiếu lệ, dập khuôn, máy móc, thậm chí sao chép nội dung mà không có sự chuyển hoá kiến thức. Những hạn chế này thể hiện rõ nhất ở việc nhiều học viên được giao thực hiện đề tài khoa học, chuyên đề khoa học (là những học viên có ý thức tự học, tự nghiên cứu) nhưng báo cáo kết quả chủ yếu là lý thuyết sẵn có, ít liên hệ thực tiễn, không vận dụng cụ thể cho bản thân dẫn đến kết quả nghiên cứu không cao, thậm chí không đạt yêu cầu về khoa học.
Những môn nghiệp vụ cơ bản vừa có tính lý luận, vừa có tính ứng dụng thực tiễn cao, đồng thời các đơn vị kiến thức của các môn có mối quan hệ chặt chẽ với nhau. Kiến thức của các môn nghiệp vụ cơ bản vừa bảo đảm tích hợp cao, vừa phân hoá mạnh. tích hợp cao ở các môn Tội phạm học, những vấn đề cơ bản Bảo vệ ANQG, bảo đảm TTATXH, Khoa học lãnh đạo, chỉ huy…, để học tốt các môn này, học viên phải có nền tảng kiến thức rộng về mặt pháp lý, chính trị, văn hoá, xã hội. Vì vậy nếu không tự học, tự nghiên cứu thì thời lượng trên lớp không thể đáp ứng được. Mặt khác, nếu tự nghiên cứu tài liệu mà không biết khái quát, liên hệ, vận dụng thì không hiểu được những đơn vị kiến thức mà các môn học đó cung cấp. Đối với các môn phân hoá mạnh như: Công tác nghiệp vụ cơ bản của lực lượng CSND, Vận động quần chúng…, thì mỗi hệ lực lượng có yêu cầu, cách thức vận dụng và thực hiện đặc thù trên cơ sở những văn bản hướng dẫn cụ thể. Thời gian trên lớp, giảng viên chỉ có thể giới thiệu quy trình chung, còn các bước cụ thể áp dụng cho từng hệ lực lượng, học viên phải tự nghiên cứu tài liệu, văn bản hướng dẫn. Vì vậy, nếu học viên chưa chủ động, chưa có phương pháp hiệu quả để tự nghiên cứu, tự học thì chất lượng học tập các môn nghiệp vụ cơ bản sẽ không cao.
- Nguồn tài liệu tham khảo cho môn học nghiệp vụ cơ bản còn hạn chế, học viên chủ yếu dựa vào tài liệu do giảng viên cung cấp hoặc tham khảo giáo trình trong Thư viện của nhà trường (nhưng nhiều giáo trình đã cũ, chưa được chỉnh lý, bổ sung), nhiều môn học đã thay đổi chương trình, kết cấu nhưng giáo trình, tài liệu chưa được biên soạn, phát hành để đưa vào sử dụng. Mặt khác, tài liệu phục vụ nghiên cứu là các chỉ thị, thông tư hướng dẫn nghiệp vụ quản lý, khai thác theo chế độ mật nên số lượng rất hạn chế, học viên muốn nghiên cứu phải thực hiện đúng các quy trình, đọc tài liệu tại chỗ, không được sao, chụp, lưu trữ vào thiết bị điện tử cá nhân. Nếu số lượng học viên có nhu cầu lớn thì việc tiếp cận các văn bản nói trên là rất khó khăn. Ngoài ra việc ứng dụng công nghệ thông tin cho việc tự nghiên cứu, tự học cũng chưa đáp ứng được yêu cầu, chúng ta chưa xây dựng được Thư viện điện tử (Electronic Library) để phục vụ học viên tự học, trong khi nhiều trường đại học khác đã chuyển sang Thư viện số (Digital Library).
Học viên Trường Đại học CSND
2. Một số giải pháp góp phần nâng cao chất lượng tự học, tự nghiên cứu các môn nghiệp vụ cơ bản
Một là, Nhà trường cần tiếp tục đầu tư cơ sở vật chất, trọng tâm là xây dựng thư viện hiện đại với số lượng giáo trình, sách chuyên khảo, tham khảo, tạp chí chuyên ngành cơ bản đáp ứng được nhu cầu của giảng viên, học viên, từng bước số hoá tài liệu với giải pháp cơ yếu để bảo đảm tính bảo mật. Tiếp đó, ưu tiên nguồn lực cho hạ tầng công nghệ để đa dạng không gian học tập cho học viên. Nhà trường cũng cần xây dựng và thực hiện cơ chế ghi nhận, đánh giá quá trình tự học, tự nghiên cứu của học viên, tổ chức các diễn đàn học thuật, các cuộc thi nghiên cứu khoa học bài bản, thực chất để giúp học viên có cơ hội giao lưu tri thức, rèn luyện kỹ năng tự học, tự nghiên cứu.
Hai là, đối với đội ngũ giảng viên, cần tiếp tục nỗ lực đổi mới nội dung và phương pháp giảng dạy các môn nghiệp vụ cơ bản, chú trọng sử dụng nhiều phương pháp dạy học tích cực, như: dạy học nêu vấn đề và định hướng giải quyết vấn đề, thảo luận nhóm, hoạt động nhóm, phương pháp vấn đáp, phương pháp đóng vai… Giảng viên phải xây dựng các câu hỏi lớn, các bài tập lớn để học viên làm quen với nghiên cứu khoa học, hiểu sâu hơn những vấn đề cơ bản của môn học; tích cực ứng dụng công nghệ thông tin trong tổ chức các hoạt động dạy học, từng bước chuyển đổi phù hợp với điều kiện công nghệ của nhà trường, sử dụng trí tuệ nhân tạo trong phạm vi cho phép (đặc biệt chú ý đến vấn đề bảo vệ bí mật nhà nước); đồng thời hướng dẫn học viên cách tiếp cận, đặt vấn đề khoa học cần nghiên cứu, cách áp dụng các phương pháp phù hợp với đối tượng nghiên cứu, biết xác định các nhiệm vụ trong giải quyết câu hỏi lớn, bài tập lớn, biết phân công nhiệm vụ trong nhóm nghiên cứu. Từ đó giúp học viên từng bước có khả năng nghiên cứu độc lập.
Đối với các môn nghiệp vụ cơ bản, việc tự nghiên cứu và vận dụng trong thực tiễn là vô cùng quan trọng, vì vậy khi học viên đi thực tập, thực tế, giảng viên hướng dẫn phải thường xuyên sâu sát giúp các em nghiên cứu, sử dụng linh hoạt các kiến thức đã học vào thực tiễn công tác, như vậy liên thông chuyển hoá quá trình tự học, tự nghiên cứu, vận dụng để nâng cao kỹ năng nghề nghiệp của mình.
Ba là, đối với học viên, trước hết phải xác định tự học, tự nghiên cứu là một phần quan trọng của học đại học, ngay từ đầu phải chú ý đến chương trình toàn khoá để xây dựng kế hoạch học tập của mình, đầu các môn học phải chú ý đến kế hoạch môn, kế hoạch bài mà giảng viên triển khai để nắm chắc vị trí, tổng quan, mục tiêu môn học, các đơn vị kiến thức cần chiếm lĩnh. Từ đó xác định trọng tâm môn học, bài học và các nguồn tài liệu cần sưu tầm, nghiên cứu.
Đối với các môn nghiệp vụ cơ bản nói riêng, tất cả môn học nói chung, học viên phải luôn có tinh thần chủ động tìm kiếm thông tin, kiến thức, chính người học phải biết thiếu cái gì, cần trang bị những hiểu biết, kỹ năng gì, đồng thời rèn luyện năng lực tiếp nhận, xử lý, tổng hợp thông tin để bổ sung và hoàn thiện vốn tri thức nghề nghiệp cho bản thân. Quá trình tự học, tự nghiên cứu thể hiện tinh thần chủ động học tập. Học viên phải xây dựng kế hoạch, phân bổ thời gian trong ngày, trong tuần để nghiên cứu, tự học; tạo lập quy trình tự nghiên cứu, tụ học bài bản, khoa học theo các bước: 1. Xác định nội dung trọng tâm cần có thêm thông tin bổ sung kiến thức, thông tin để làm rõ, hiểu sâu kiến thức; 2. Xác định nguồn tài liệu chứa đựng các thông tin, kiến thức cần thu thập; 3. Tiến hành tiếp cận, thu thập, nghiên cứu nội dung; 4. Chọn lọc, phân loại, phân tích, đối chiếu, tổng hợp các thông tin, các kiến thức; 5. Liên hệ với nội dung bài giảng trên lớp, liên hệ với những vấn đề từ thực tiễn để đưa các kết luận và giải pháp cho các vấn đề nghiên cứu của mình.
Trong giai đoạn hiện nay, học viên phải có kiến thức, khả năng sử dụng thành thạo các phương tiện công nghệ thông tin để phục vụ việc tự nghiên cứu, tự học, chuyển đổi từ hình học tập truyền thống sang học tập áp dụng công nghệ số hóa; biết sử dụng các phần mềm học trực tuyến, sử dụng công nghệ trí tuệ nhân tạo để khai thác dữ liệu và tương tác khi tự học. Một điều đặc biệt chú ý đối với học viên khi sử dụng công nghệ thông tin, sử dụng nền tảng số trong nghiên cứu tự học phải tuyệt đối tuân thủ các quy định về bảo vệ bí mật nhà nước, những hành vi (kể cả vô ý) làm lộ, lọt bí mật nhà nước đều bị xử lý theo quy định của pháp luật.
Tóm lại, việc nâng cao chất lượng tự học, tự nghiên cứu của học viên là quá trình đòi hỏi sự chủ động, kiên trì, sáng tạo, quyết tâm của nhà trường, đội ngũ giảng viên và của bản thân học viên. Hy vọng những giải pháp nói trên sẽ góp phần nâng cao chất lượng tự học, tự nghiên cứu các môn nghiệp vụ cơ bản nói riêng, các môn học khác nói chung của học viên Trường đại học CSND trong thời gian tới.
TS. Ngô Quang Cảnh
P. Trưởng Khoa NVCB - T05
TÀI LIỆU THAM KHẢO:
1. Ban Chấp hành Trung ương (2013). Nghị quyết số 29-NQ/TW ngày 04/11/2013 Hội nghị lần thứ 8 (khóa XI) về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo.
2. Ban Chấp hành Trung ương (2025), Nghị quyết số 71 – NQ/TW về đột phá phát triển giáo dục, đào tạo
3. Quốc hội (2012), Luật giáo dục đại học;
4. Quốc hội (2018), Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật giáo dục đại học
5. Quốc hội (2018), Luật Công an nhân dân.
- Bác Hồ với mùa Xuân của Đảng, của đất nước và dân tộc (18.07.2018)
- Xét tuyển đại học 2018: Thí sinh không nên “tham” nhiều nguyện vọng (16.07.2018)
- Choáng với tỉ lệ chọi vào các trường CAND năm 2018 (04.07.2018)
- Giảng dạy nghiệp vụ bằng tiếng Anh (25.05.2018)
- Trao huân chương, huy chương cho các đồng chí nguyên là lãnh đạo nhà trường (12.05.2018)
- Báo chí, xuất bản CAND làm tốt nhiệm vụ chính trị (16.04.2018)
- Trên nẻo đường xuân tình nguyện (03.04.2018)
- Tập huấn những điểm mới của bộ luật hình sự năm 2015 trong công tác đấu tranh phòng chống tội phạm v (29.03.2018)
- Nhiều hoạt động ý nghĩa kỷ niệm 88 năm Ngày thành lập Đảng (21.03.2018)