Trụ sở chính: 36 Nguyễn Hữu Thọ - Phường Tân Phong - Quận 7 - TP. Hồ Chí Minh

Đổi mới tư duy trong công tác xây dựng pháp luật tại Ban Cơ yếu Chính phủ

Ngày đăng: 06.03.2025

Nghị quyết số 56-NQ/TW ngày 05/3/2020 của Bộ Chính trị về Chiến lược phát triển ngành Cơ yếu Việt Nam đến năm 2030, định hướng đến năm 2045 xác định một trong các mục tiêu và giải pháp quan trọng xây dựng ngành Cơ yếu Việt Nam cách mạng, chính quy, tiến thẳng lên hiện đại là: Hoàn thiện cơ chế, chính sách, hệ thống pháp luật về cơ yếu đúng với tính chất ngành khoa học - kỹ thuật cơ mật đặc biệt thuộc lĩnh vực an ninh quốc gia. Xác định rõ trách nhiệm của các Bộ, ngành, địa phương trong xây dựng và quản lý thống nhất, chặt chẽ các tổ chức cơ yếu và đội ngũ cán bộ, nhân viên cơ yếu trên toàn quốc. Hoàn thiện và phát huy hiệu quả cơ chế phối hợp giữa các lực lượng chuyên trách trong lĩnh vực bảo mật, an toàn thông tin (ATTT).

 

 

Nghị quyết số 27-NQ/TW của Hội nghị lần thứ sáu Ban Chấp hành Trung ương khóa XIII xác định một trong các mục tiêu và giải pháp quan trọng tiếp tục xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong giai đoạn mới là xây dựng hệ thống pháp luật dân chủ, công bằng, nhân đạo, đầy đủ, kịp thời, đồng bộ, thống nhất, công khai, minh bạch, ổn định, khả thi, dễ tiếp cận, mở không gian cho đổi mới sáng tạo, phát triển bền vững.

Ngày 21/10/2024, tại kỳ họp thứ 8 Quốc hội khóa XV, đồng chí Tổng Bí thư Tô Lâm đã yêu cầu tiếp tục đổi mới mạnh mẽ công tác lập pháp; chuyển đổi tư duy xây dựng pháp luật theo hướng vừa bảo đảm yêu cầu quản lý nhà nước vừa khuyến khích sáng tạo, giải phóng toàn bộ sức sản xuất, khơi thông mọi nguồn lực để phát triển; tư duy quản lý không cứng nhắc, dứt khoát bỏ tư duy “không quản được thì cấm”. Các quy định phải mang tính ổn định, có giá trị lâu dài; luật chỉ quy định những vấn đề khung, những vấn đề có tính nguyên tắc, không cần quá dài. Đẩy mạnh phân cấp, phân quyền, cải cách triệt để thủ tục hành chính. Tập trung kiểm soát quyền lực trong xây dựng pháp luật; siết chặt kỷ luật, kỷ cương, đề cao trách nhiệm, nhất là trách nhiệm của người đứng đầu; kiên quyết chống tiêu cực, lợi ích nhóm. Chủ động, tích cực, khẩn trương xây dựng hành lang pháp lý cho những vấn đề mới, xu hướng mới, tạo khung pháp lý để thực hiện thành công cuộc cách mạng về chuyển đổi số, tạo đột phá cho phát triển đất nước những năm tiếp theo.

Ngày 26/11/2011, tại kỳ họp thứ hai, Quốc hội khóa XIII thông qua Luật Cơ yếu. Luật ra đời trên cơ sở kế thừa giá trị của Pháp lệnh Cơ yếu, tạo lập cơ sở pháp lý cho thời kỳ đổi mới toàn diện, đồng bộ về chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội đáp ứng yêu cầu của công cuộc xây dựng, bảo vệ đất nước và hội nhập quốc tế. Bên cạnh đó, Luật Cơ yếu thể chế hóa đầy đủ quan điểm, chủ trương, định hướng của Đảng, Nhà nước về công tác cơ yếu, kịp thời khắc phục những hạn chế của các văn bản pháp luật hiện hành, tạo điều kiện thuận lợi cho ngành Cơ yếu phát triển. Để thực hiện Luật Cơ yếu, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng, Bộ trưởng các Bộ, ngành có liên quan đã ban hành nhiều văn bản quản lý trong toàn Ngành. Chỉ tính riêng từ năm 2012 đến nay, số lượng văn bản quy phạm pháp luật về cơ yếu được ban hành tương đối lớn, gấp nhiều lần so với những năm trước đó cộng lại. Văn bản còn hiệu lực: 65 văn bản quy phạm pháp luật, gồm: 08 nghị định của Chính phủ, 03 quyết định của Thủ tướng Chính phủ, 49 thông tư của Bộ trưởng Bộ Quốc phòng, 02 thông tư của Bộ trưởng các Bộ, ngành có liên quan, 03 thông tư liên tịch; 87 văn bản quản lý ngành Cơ yếu, Ban Cơ yếu Chính phủ do Trưởng ban Ban Cơ yếu Chính phủ ban hành.

Được sự quan tâm, chỉ đạo của Thường vụ Đảng ủy, Lãnh đạo Ban Cơ yếu Chính phủ, trong những năm qua, công tác xây dựng văn bản pháp luật về cơ yếu, văn bản quản lý trong Ban Cơ yếu Chính phủ đạt được những kết quả tốt, thể hiện tập trung ở một số điểm sau: (1) Hình thành hệ thống văn bản quy phạm pháp luật về cơ yếu; (2) Góp phần bảo đảm tuyệt đối bí mật, ATTT cho các hệ thống thông tin phục vụ lãnh đạo, chỉ đạo, quản lý, điều hành của Đảng, Nhà nước; (3) Xây dựng và phát triển hạ tầng cơ sở mật mã quốc gia; (4) Khẳng định rõ vị trí, tính chất, cơ chế hoạt động cơ yếu; (5) Thúc đẩy sự phát triển khoa học - công nghệ mật mã Việt Nam; (6) Tổ chức sản xuất, cung cấp và quản lý sử dụng sản phẩm mật mã bảo vệ thông tin bí mật nhà nước; (7) Xây dựng và phát triển hệ thống chứng thực chữ ký số chuyên dùng công vụ (chữ ký số chuyên dùng Chính phủ); (8) Tạo điều kiện, môi trường cho hoạt động nghiên cứu, sản xuất, kinh doanh và sử dụng mật mã dân sự; (9) Bảo đảm tính thống nhất, chặt chẽ của tổ chức cơ yếu; (10) Đào tạo, phát triển nguồn nhân lực cho ngành Cơ yếu; (11) Tăng cường quản lý người làm công tác cơ yếu; (12) Tạo cơ sở pháp lý để thực hiện chế độ, chính sách đối với người làm công tác cơ yếu; (13) Thực hiện nhiệm vụ quản lý nhà nước về cơ yếu; (14) Đẩy mạnh hợp tác quốc tế về cơ yếu.

Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đạt được, hệ thống văn bản pháp luật về cơ yếu, văn bản quản lý trong Ban Cơ yếu Chính phủ còn thiếu tính thống nhất, đồng bộ; quy định còn chồng chéo, mâu thuẫn, chưa phù hợp với thực tiễn; một số văn bản hiệu lực thi hành còn thấp; nhiều quy định pháp lý còn thiếu; nhiều nội dung cần được hướng dẫn chi tiết.

Để tiếp tục quán triệt, tổ chức triển khai thực hiện nghiêm túc chủ trương của Đảng, ý kiến chỉ đạo của đồng chí Tổng Bí thư trong công tác xây dựng và hoàn thiện pháp luật; góp phần hoàn thiện pháp luật về cơ yếu, xây dựng ngành Cơ yếu Việt Nam cách mạng, chính quy, tiến thẳng lên hiện đại, cần đổi mới tư duy trong xây dựng pháp luật tại Ban Cơ yếu Chính phủ thông qua bảo đảm các yêu cầu sau:

Một là, tham mưu xây dựng văn bản quy phạm pháp luật về cơ yếu, ban hành văn bản quản lý trong Ban Cơ yếu Chính phủ ngắn gọn, quy định những nội dung đúng thẩm quyền, bám sát thực tiễn, không cầu toàn, không nóng vội; tuyệt đối không luật hóa quy định của nghị định, thông tư; loại ra khỏi dự thảo luật những vấn đề thuộc thẩm quyền của Chính phủ, các Bộ và các cơ quan khác. Quy định của văn bản phải rõ ràng, thực chất, không quy định chung chung, không sao chép lại những nội dung đã được quy định trong các văn bản khác, góp phần đơn giản, gọn nhẹ nội dung của văn bản, đảm bảo dễ hiểu, dễ thực hiện.

Các cơ quan, đơn vị, cán bộ thuộc Ban Cơ yếu Chính phủ trong quá trình tham mưu xây dựng, tham gia ý kiến vào dự thảo văn bản phát huy dân chủ, trí tuệ, vai trò trung tâm trong đổi mới, nâng cao chất lượng hoạt động với tinh thần chuyên nghiệp, khoa học, kỹ lưỡng nhưng không cầu toàn; bám sát yêu cầu của thực tiễn, tập trung nghiên cứu, tham gia ý kiến nhằm tháo gỡ hiệu quả các vướng mắc, bất cập, nhất là các “điểm nghẽn” cản trở sự phát triển, bảo đảm các văn bản sau khi được ban hành đạt chất lượng cao, tạo hành lang pháp lý thuận lợi, đồng bộ, thúc đẩy thực hiện thắng lợi các nhiệm vụ xây dựng, phát triển ngành Cơ yếu, Ban Cơ yếu Chính phủ theo tinh thần Nghị quyết số 56- NQ/TW của Bộ Chính trị.

Hai là, những vấn đề mới, đang trong quá trình vận động, thực tiễn biến động thường xuyên, chưa ổn định thì chỉ quy định khung, mang tính nguyên tắc; đối với các văn bản luật, giao cho Chính phủ, các Bộ, chính quyền địa phương quy định để đảm bảo linh hoạt trong điều hành, phù hợp với thực tiễn.

Ba là, tăng cường phân cấp, phân quyền gắn với quy định rõ nhiệm vụ, quyền hạn của các cơ quan, tổ chức, cá nhân trong bộ máy nhà nước, nâng cao năng lực thực thi. Trong quá trình tham mưu, xây dựng dự thảo văn bản, những việc Bộ, ngành, địa phương (đối với văn bản luật); cơ quan chức năng thuộc Bộ, ngành, địa phương, Ban Cơ yếu Chính phủ (đối với Nghị định); cơ quan thuộc Ban Cơ yếu Chính phủ, tổ chức cơ yếu đầu Hệ (đối với thông tư, văn bản quản lý ngành Cơ yếu, văn bản quản lý trong Ban Cơ yếu Chính phủ) thực hiện tốt hơn thì phân cấp, phân quyền cho Bộ, ngành, địa phương và cơ quan các cấp thực hiện để Chính phủ, các Cơ quan Trung ương, Ban Cơ yếu Chính phủ tập trung làm chính sách, xử lý những vấn đề vĩ mô.

Bốn là, triệt để cắt giảm, đơn giản hóa thủ tục hành chính, tạo điều kiện đầu tư sản xuất, kinh doanh, giảm chi phí tuân thủ, tạo thuận lợi cao nhất cho người dân và doanh nghiệp. Cơ bản không quy định trong luật những nội dung về thủ tục hành chính, trình tự, hồ sơ mà giao Chính phủ, các Bộ quy định theo thẩm quyền để linh hoạt, kịp thời sửa đổi, bổ sung khi cần thiết, tạo thuận lợi cho việc phân cấp phù hợp với thực tiễn và đáp ứng yêu cầu cải cách thủ tục hành chính.

Đối với các thủ tục hành chính nội bộ, cần minh bạch hóa, xác định rõ trình tự, hồ sơ, thời gian giải quyết, trách nhiệm của các chủ thể theo hướng đơn giản hóa thủ tục hành chính, phù hợp với yêu cầu quản lý nhà nước về cơ yếu, yêu cầu quản lý của Ngành, Ban Cơ yếu Chính phủ. Thủ tục hành chính nội bộ được nhận biết thông qua các dấu hiệu sau: (1) Được quy định trong văn bản quy phạm pháp luật hoặc văn bản quản lý do cơ quan, người có thẩm quyền ban hành; (2) Được quy định dưới dạng hành động để giải quyết công việc cụ thể cho cơ quan hành chính nhà nước hoặc đảm bảo việc thực thi công vụ của cán bộ, nhân viên, người lao động làm việc trong cơ quan; (3) Quy định thủ tục hành chính xuất phát từ yêu cầu cụ thể và nhằm mục tiêu giải quyết công việc cho cơ quan hành chính nhà nước và cán bộ, nhân viên, người lao động làm việc trong cơ quan hành chính nhà nước.

Năm là, siết chặt kỷ luật, kỷ cương, đề cao trách nhiệm của cơ quan chủ trì trong từng khâu của quy trình xây dựng văn bản, kịp thời phát hiện, xử lý nghiêm mọi hành vi tiêu cực, “cài cắm” lợi ích nhóm, lợi ích cục bộ trong xây dựng văn bản theo đúng Quy định số 178-QĐ/TW ngày 27/6/2024 của Bộ Chính trị về kiểm soát quyền lực, phòng, chống tham nhũng, tiêu cực trong công tác xây dựng pháp luật.

Song song với việc triển khai các giải pháp đổi mới tư duy trong công tác xây dựng pháp luật, công tác xây dựng đội ngũ cán bộ pháp chế, cán bộ chuyên môn nghiệp vụ trong các cơ quan, đơn vị thuộc Ban Cơ yếu Chính phủ được giao tham mưu, xây dựng văn bản pháp luật là nhiệm vụ cần được quan tâm, chú trọng. Xây dựng chính sách, pháp luật là công việc rất khó khăn, phức tạp, chịu sự tác động bởi năng lực yếu tố khách quan và chủ quan, đòi hỏi những người trực tiếp thực hiện phải có trao đổi chuyên môn sâu, có năng lực khoa học, phân tích chính sách và soạn thảo văn bản pháp luật. Soạn thảo văn bản pháp luật là việc chuyển tải chính sách thành ngôn ngữ pháp lý chuyên dùng. Từ chủ trương, chính sách đến pháp luật thực định là cả một quá trình người soạn thảo đã tham gia vào mã hóa, cụ thể chi tiết chính sách đó. Giữa chính sách và pháp luật có một khoảng trống, nếu năng lực người soạn thảo không đáp ứng yêu cầu là một vấn đề tồn tại lớn, dẫn đến chính sách không đi vào điều luật thực định. Do đó, cần chuyên nghiệp hóa đội ngũ cán bộ làm công tác xây dựng chính sách, pháp luật (về năng lực pháp lý và kinh nghiệm thực tiễn); có chính sách đào tạo, bồi dưỡng chuyên sâu về xây dựng chính sách, pháp luật; đồng thời lựa chọn những chuyên gia có kinh nghiệm, năng lực chuyên môn sâu, có bản lĩnh chính trị vững vàng, nắm vững chủ trương, đường lối, định hướng phát triển ngành Cơ yếu, Ban Cơ yếu Chính phủ để chuyên trách làm công tác soạn thảo, thẩm định văn bản văn bản pháp luật, văn bản quản lý trong Ban Cơ yếu Chính phủ.

Triển khai thực hiện tốt các giải pháp đổi mới tư duy trong công tác xây dựng pháp luật và công tác xây dựng đội ngũ cán bộ pháp chế, cán bộ được giao tham mưu, xây dựng văn bản pháp luật trong các cơ quan, đơn vị thuộc Ban Cơ yếu Chính phủ sẽ góp phần nâng cao chất lượng văn bản văn bản pháp luật, văn bản quản lý Ngành, Ban Cơ yếu Chính phủ; xây dựng ngành Cơ yếu Việt Nam cách mạng, chính quy, tiến thẳng lên hiện đại.

 

https://coyeu.antoanthongtin.vn/

 

Copyrights © 2020 TRƯỜNG ĐẠI HỌC CẢNH SÁT NHÂN DÂN