Ngày 22/8/2025, Bộ Chính trị đã ban hành Nghị quyết số 71-NQ/TW về đột phá phát triển giáo dục và đào tạo. Đây là chủ trương lớn, mang tính chiến lược nhằm tạo chuyển biến căn bản, toàn diện, đưa giáo dục trở thành động lực then chốt cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
1. Bối cảnh ra đời của Nghị quyết 71-NQ/TW
Ngày 22/8/2025, Bộ Chính trị ban hành Nghị quyết số 71-NQ/TW về đột phá phát triển giáo dục và đào tạo. Đây là chủ trương lớn, mang tính chiến lược nhằm khắc phục hạn chế, tạo bước tiến mới cho sự nghiệp giáo dục nước nhà.
Trong nhiều năm qua, cùng với khoa học, công nghệ, giáo dục và đào tạo luôn được Đảng, Nhà nước xác định là quốc sách hàng đầu. Việt Nam đã đạt nhiều kết quả quan trọng, nằm trong nhóm 21 quốc gia sớm hoàn thành mục tiêu phát triển bền vững của Liên Hợp Quốc về giáo dục đến năm 2030.
Tuy nhiên, hệ thống giáo dục còn nhiều bất cập: chất lượng và cơ hội tiếp cận chưa đồng đều; sự chênh lệch vùng miền lớn; cơ sở vật chất và đội ngũ nhà giáo chưa đáp ứng yêu cầu; bệnh thành tích và tiêu cực vẫn tồn tại…
Nguyên nhân chủ yếu là do chưa nhận thức đầy đủ quan điểm giáo dục là quốc sách hàng đầu; tư duy quản lý còn chậm đổi mới; cơ chế tự chủ và xã hội hóa chưa phù hợp; nguồn lực đầu tư hạn chế; chính sách với nhà giáo chưa tương xứng. Trong bối cảnh toàn cầu, công nghệ số và trí tuệ nhân tạo đang thay đổi mạnh mẽ, giáo dục Việt Nam buộc phải có giải pháp đột phá để chuẩn bị cho thời kỳ phát triển mới, xây dựng nguồn nhân lực chất lượng cao phục vụ phát triển đất nước và bảo vệ Tổ quốc.
2. Mục tiêu đến năm 2030, 2035 và tầm nhìn 2045
Nghị quyết đặt ra hệ mục tiêu cụ thể, theo từng giai đoạn:
- Đến năm 2030: Hoàn thành phổ cập mầm non cho trẻ 3–5 tuổi và giáo dục bắt buộc đến hết THCS; ít nhất 85% thanh niên trong độ tuổi hoàn thành THPT; 80% trường phổ thông đạt chuẩn quốc gia. Phát triển mạnh giáo dục ngoại ngữ và năng lực ứng dụng công nghệ, AI trong phổ thông. Tỷ lệ lao động có trình độ cao đẳng, đại học trở lên đạt 24%. Có ít nhất 8 đại học Việt Nam vào top 200 châu Á và 1 trường thuộc top 100 thế giới.
- Đến năm 2035: Phổ cập giáo dục THPT toàn quốc, chỉ số giáo dục trong HDI trên 0,85. Có ít nhất 2 đại học Việt Nam lọt top 100 thế giới. Nhân lực chất lượng cao đạt trình độ ngang tầm các nước thu nhập trung bình cao.
- Tầm nhìn 2045: Xây dựng hệ thống giáo dục quốc dân hiện đại, công bằng, chất lượng cao; đưa Việt Nam thuộc nhóm 20 quốc gia dẫn đầu thế giới về giáo dục. Mọi người dân được học tập suốt đời. Có ít nhất 5 đại học của Việt Nam nằm trong nhóm 100 trường đại học hàng đầu toàn cầu.
3. Các định hướng lớn
Đây là nội dung cốt lõi của Nghị quyết 71-NQ/TW, thể hiện tầm nhìn chiến lược của Đảng đối với sự nghiệp giáo dục và đào tạo.
- Khẳng định giáo dục là quốc sách hàng đầu, sự nghiệp của Đảng, Nhà nước và toàn dân: Giáo dục quyết định tương lai dân tộc. Nhà nước giữ vai trò định hướng, kiến tạo, đảm bảo công bằng và bình đẳng trong tiếp cận giáo dục, trong khi toàn xã hội có trách nhiệm tham gia chăm lo, giám sát.
- Xây dựng xã hội học tập, phát huy truyền thống hiếu học: Khuyến khích tự học, học tập suốt đời; lan tỏa tinh thần hiếu học trong mọi tầng lớp nhân dân. Hướng đến xây dựng Việt Nam trở thành “quốc gia học tập”, nơi mọi người đều có cơ hội phát triển.
- Gắn kết gia đình – nhà trường – xã hội: Nghị quyết nhấn mạnh sự phối hợp chặt chẽ trong giáo dục. Gia đình là nền tảng, nhà trường là trung tâm, xã hội là môi trường rộng lớn. Người học là trung tâm, nhà giáo là nhân tố quyết định chất lượng. Phương châm “thầy ra thầy, trò ra trò” được nhấn mạnh, nhằm xây dựng môi trường giáo dục kỷ cương, lành mạnh.
- Kết hợp hài hòa giữa giáo dục đại trà và giáo dục mũi nhọn: Giáo dục phổ thông và mầm non là nền tảng; giáo dục nghề nghiệp giữ vai trò trọng yếu trong đào tạo kỹ năng; giáo dục đại học là nòng cốt phát triển nhân lực trình độ cao, nhân tài, nghiên cứu khoa học và đổi mới sáng tạo.
- Đột phá từ đổi mới tư duy, thể chế và cơ chế quản trị: Để tạo đột phá, cần chuyển từ quản lý hành chính sang quản trị hiện đại, phát triển cơ chế tự chủ, trách nhiệm giải trình. Đồng thời, tạo không gian phát triển mới, huy động nguồn lực xã hội, bảo đảm vai trò dẫn dắt của Nhà nước.
- Phát triển hệ thống giáo dục mở, đa dạng, công bằng và liên thông: Giáo dục công lập là trụ cột, giáo dục ngoài công lập là thành phần quan trọng. Hệ thống giáo dục mở, liên thông, tạo điều kiện cho mọi người học tập suốt đời, phù hợp với nhu cầu đa dạng của xã hội.
- Chú trọng hội nhập quốc tế, tiếp thu tinh hoa nhân loại: Giáo dục Việt Nam phải gắn kết với chuẩn mực quốc tế, nhưng vẫn giữ gìn bản sắc dân tộc. Hội nhập không chỉ là học hỏi, mà còn là khẳng định vị thế giáo dục Việt Nam trên trường quốc tế.
Những định hướng này tạo thành khung chiến lược, là nền tảng để triển khai các nhiệm vụ và giải pháp cụ thể, bảo đảm giáo dục thực sự trở thành động lực cho phát triển đất nước.
4. Nhiệm vụ và giải pháp chủ yếu
Trên cơ sở các định hướng đã nêu, Nghị quyết 71-NQ/TW xác định 8 nhóm nhiệm vụ, giải pháp đột phá cho giáo dục và đào tạo:
- Nâng cao nhận thức, đổi mới tư duy, tăng cường lãnh đạo của Đảng: Quán triệt sâu rộng quan điểm của Đảng, tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục; coi giáo dục là động lực then chốt của phát triển. Đổi mới mạnh mẽ tư duy quản lý từ hành chính sang quản trị hiện đại; đặt giáo dục trong tổng thể chiến lược phát triển kinh tế – xã hội. Tăng cường vai trò của tổ chức Đảng trong cơ sở giáo dục, thực hiện nguyên tắc bí thư cấp ủy đồng thời là người đứng đầu.
- Hoàn thiện thể chế, chính sách đặc thù: Xây dựng cơ chế pháp lý vượt trội, tháo gỡ “nút thắt” để thúc đẩy sáng tạo. Đẩy mạnh phân cấp, phân quyền gắn với phân bổ nguồn lực, nâng cao tự chủ và trách nhiệm giải trình. Nâng phụ cấp ưu đãi cho giáo viên mầm non, phổ thông tối thiểu 70% (100% ở vùng khó khăn). Bảo đảm tối thiểu 20% chi ngân sách nhà nước cho giáo dục, đồng thời huy động mạnh mẽ nguồn lực xã hội.
- Giáo dục toàn diện đức – trí – thể – mỹ: Hoàn thiện hệ thống chính sách nhằm giáo dục đạo đức, nhân cách, hệ giá trị con người Việt Nam. Phát huy vai trò gia đình – nhà trường – xã hội trong giáo dục lối sống, văn hóa học đường. Đổi mới nội dung, phương pháp dạy các môn giáo dục công dân, lịch sử, pháp luật. Tăng cường giáo dục lý tưởng, trách nhiệm xã hội; phòng, chống tiêu cực, bạo lực, ma túy học đường; nâng cao chất lượng dinh dưỡng và thể chất học sinh.
- Đẩy mạnh chuyển đổi số, ứng dụng trí tuệ nhân tạo: Thúc đẩy chuyển đổi số toàn diện trong quản lý và dạy học; xây dựng dữ liệu giáo dục quốc gia, phát triển nền tảng học tập thông minh ứng dụng AI. Kết nối dữ liệu giáo dục với thị trường lao động. Đưa kỹ năng số và AI vào chương trình học phù hợp; đào tạo năng lực số cho giáo viên, học sinh; khuyến khích sự tham gia của doanh nghiệp, trường đại học trong đào tạo.
- Phát triển đội ngũ nhà giáo và cơ sở vật chất: Bảo đảm đủ số lượng, chất lượng giáo viên; có chính sách ưu đãi, thu hút học sinh giỏi vào sư phạm; hỗ trợ giáo viên vùng khó khăn. Tập trung đầu tư kiên cố hóa, hiện đại hóa trường lớp, phòng thí nghiệm STEM/STEAM, khu thể chất. Mở rộng trường dân tộc nội trú, giáo dục hòa nhập cho trẻ khuyết tật. Rà soát chương trình giáo dục phổ thông mới; tiến tới cung cấp miễn phí sách giáo khoa từ 2030. Đổi mới kiểm tra, đánh giá, chấn chỉnh dạy thêm – học thêm. Định hướng phát triển trường chuyên, lớp chuyên, tăng cường dạy ngoại ngữ, đưa tiếng Anh thành ngôn ngữ thứ hai.
- Cải cách giáo dục nghề nghiệp: Tái cấu trúc mạng lưới trường nghề theo hướng tinh gọn, chất lượng. Phát triển mô hình trung học nghề để sớm hướng nghiệp. Đổi mới chương trình đào tạo theo chuẩn quốc tế, gắn đào tạo với doanh nghiệp, tăng cường đào tạo tại nơi làm việc. Ưu tiên đào tạo nhân lực kỹ năng cao cho các ngành kỹ thuật, công nghệ; có chính sách hỗ trợ thanh niên dân tộc thiểu số. Thu hút chuyên gia, người lao động tay nghề cao tham gia giảng dạy.
- Hiện đại hóa giáo dục đại học, phát triển nhân lực trình độ cao: Xây dựng chiến lược phát triển đại học đến 2030, tầm nhìn 2045. Sắp xếp, tái cấu trúc hệ thống; sáp nhập, giải thể cơ sở không đạt chuẩn; gắn đào tạo với nghiên cứu, đổi mới sáng tạo. Ưu tiên đầu tư các trường trọng điểm, hình thành 3–5 đại học tinh hoa đạt chuẩn quốc tế. Tăng cường nghiên cứu cơ bản, đào tạo sau đại học; xây dựng khu đại học – công nghệ cao; thúc đẩy liên kết Nhà nước – nhà trường – doanh nghiệp. Đổi mới chương trình, phương thức tuyển sinh, bảo đảm chuẩn đầu ra theo chuẩn quốc tế.
- Mở rộng hợp tác và hội nhập quốc tế: Đẩy mạnh liên kết với các trường đại học uy tín, áp dụng chuẩn mực quốc tế phù hợp. Tăng cường đàm phán, ký kết hiệp định hợp tác giáo dục, tham gia tổ chức kiểm định quốc tế. Khuyến khích giảng viên, sinh viên đi học tập ở nước ngoài; thu hút đầu tư nước ngoài vào giáo dục đại học, nghề nghiệp; phát triển các mô hình đào tạo xuyên biên giới. Đồng thời, bảo đảm an ninh văn hóa, gắn giáo dục quốc tế với việc giữ gìn bản sắc Việt Nam
Kết luận
Nghị quyết 71-NQ/TW không chỉ đặt ra mục tiêu, mà còn xác định rõ định hướng và giải pháp để phát triển giáo dục. Đặc biệt, các định hướng lớn là kim chỉ nam, mở ra tầm nhìn dài hạn, hướng tới xây dựng nền giáo dục hiện đại, hội nhập, công bằng và chất lượng cao, góp phần đưa Việt Nam trở thành quốc gia phát triển vào năm 2045.
Ngô Minh Thiện
- Ngăn ngừa hành vi lợi dụng internet, mạng xã hội để xuyên tạc về quyền con người (01.11.2018)
- Giao lưu, gặp gỡ nhân chứng lịch sử (01.10.2018)
- Hiến máu tình nguyện được tặng dịch vụ khám chữa bệnh (12.09.2018)
- Sôi động cùng mùa giải chào mừng năm học mới (17.08.2018)
- Nâng cao kỹ năng giao tiếp tiếng anh cho cán bộ, giảng viên Trường Đại học Cảnh sát nhân dân (06.07.2017)
- Từ 01/01/2020 sẽ ghi âm, ghi hình khi hỏi cung trên cả nước (04.07.2017)