Nhận diện những mối quan hệ lớn trong thực tiễn, nhận thức về các mâu thuẫn nảy sinh là con đường từ lý luận đến thực tiễn. Việc kết hợp giữa lý luận khoa học và thực tiễn cách mạng là để nhìn nhận rõ bản chất của sự việc, cung cấp tư duy đúng đắn, gợi mở những giải pháp nhằm giữ vững vai trò lãnh đạo của Đảng đối với hệ thống chính trị, không ngừng nâng cao năng lực lãnh đạo, cầm quyền của Đảng đối với Nhà nước và xã hội.
Phát triển tư duy lý luận qua các thời kỳ cách mạng, Đại hội XIII của Đảng đã xác định 10 mối quan hệ lớn cần tiếp tục nắm vững và giải quyết tốt trong quá trình xây dựng CNXH, gồm: 1) Ổn định, đổi mới và phát triển; 2) Đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị; 3) Tuân theo các quy luật thị trường và bảo đảm định hướng XHCN; 4) Phát triển lực lượng sản xuất và xây dựng, hoàn thiện từng bước quan hệ sản xuất XHCN; 5) Nhà nước, thị trường và xã hội; 6) Tăng trưởng kinh tế và phát triển văn hoá, thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội, bảo vệ môi trường; 7) Xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN; 8) Độc lập, tự chủ và hội nhập quốc tế; 9) Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý và nhân dân làm chủ; 10) Thực hành dân chủ và tăng cường pháp chế, bảo đảm kỷ cương xã hội.
Những mối quan hệ lớn nêu trên được giải quyết thông qua hoạt động lãnh đạo của Đảng. Tuy nhiên, trong quá trình giải quyết, những yêu cầu mới liên tục nảy sinh, đôi khi hình thành những mâu thuẫn lớn giữa mong muốn và thực tiễn. Việc giải quyết được hay không những mâu thuẫn lớn phụ thuộc vào có hay không các yếu tố: năng lực lãnh đạo của Đảng; nắm vững bản chất của các mối quan hệ; đề ra chủ trương đường lối đúng đắn; tổ chức thực hiện tốt; phương thức lãnh đạo phù hợp...
NHỮNG MÂU THUẪN NẢY SINH TRONG QUÁ TRÌNH ĐẢNG LÃNH ĐẠO GIẢI QUYẾT CÁC MỐI QUAN HỆ LỚN THỜI GIAN QUA
Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Nguyễn Phú Trọng chung vui Ngày hội Đại đoàn kết cùng đồng bào xã Dur Kmăl, huyện Krông Ana, Đắk Lắk, ngày 11/11/2018
Thứ nhất, mâu thuẫn giữa nhiệm vụ cách mạng ngày càng nặng nề với năng lực lãnh đạo, cầm quyền của Đảng.
Bối cảnh quốc tế và trong nước có cả thuận lợi, thời cơ và khó khăn, thách thức đan xen, đặt ra nhiều vấn đề mới, yêu cầu mới nặng nề, phức tạp hơn đối với sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, đòi hỏi toàn Đảng phải tiếp tục đổi mới mạnh mẽ tư duy, có quyết tâm chính trị cao, dự báo chính xác, kịp thời diễn biến của tình hình, chủ động ứng phó kịp thời với mọi tình huống. Đồng thời nỗ lực hơn nữa để tiếp tục đẩy mạnh toàn diện, đồng bộ công cuộc đổi mới; không ngừng gia tăng tiềm lực mọi mặt của quốc gia, bảo vệ vững chắc Tổ quốc và những thành quả phát triển đã đạt được; đưa đất nước vững bước tiến lên, phát triển nhanh và bền vững.
Thực tiễn cho thấy, năng lực lãnh đạo, cầm quyền của Đảng đã có nhiều đổi mới, đạt nhiều kết quả quan trọng, tuy nhiên vẫn chưa hoàn toàn đáp ứng với yêu cầu đặt ra, còn những bất cập, hạn chế cần khắc phục, như một số chủ trương, định hướng lớn chưa đảm bảo tính dự báo, chưa được thể chế kịp thời, đầy đủ hoặc đã thể chế nhưng tính khả thi thấp. Mô hình tổng thể của hệ thống chính trị chưa hoàn thiện; chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, mối quan hệ công tác của tổ chức, cá nhân, người đứng đầu có nội dung chưa rõ; phân cấp, phân quyền chưa mạnh ảnh hưởng tới hiệu quả hoạt động. Cải cách hành chính, đổi mới phong cách, lề lối làm việc trong Đảng chưa đáp ứng yêu cầu của tình hình mới. Kiểm soát quyền lực chưa thực sự hiệu quả...
Thứ hai, yêu cầu triển khai các chủ trương, đường lối của Đảng vào cuộc sống nhanh và tích cực mâu thuẫn với công tác thể chế hóa của Nhà nước chưa kịp thời, đầy đủ hoặc đã thể chế nhưng không khả thi.
Trước nhiệm vụ cách mạng ngày càng nặng nề, Đảng đã nhanh chóng ban hành các chủ trương, đường lối lãnh đạo hệ thống chính trị, lãnh đạo Nhà nước và xã hội. Tuy nhiên, việc thể chế hóa đường lối, chủ trương vẫn còn hạn chế, bất cập, một số văn bản quy phạm pháp luật chưa được ban hành đúng kế hoạch, hoặc đã ban hành nhưng chưa phù hợp, chưa theo kịp yêu cầu thực tiễn. Công tác lãnh đạo việc thể chế hóa, cụ thể hóa đường lối của Đảng của một số cấp ủy chưa quyết liệt, chậm trễ, chưa xác định rõ trách nhiệm của người đứng đầu và tập thể lãnh đạo quản lý...
Có nhiều nguyên nhân dẫn đến hạn chế nêu trên, trong đó trước hết là do nhận thức của các cấp ủy, tổ chức đảng, cán bộ, đảng viên về đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với hệ thống chính trị chưa đủ sâu sắc. Năng lực cụ thể hóa và lãnh đạo, chỉ đạo, tổ chức thực hiện chủ trương, đường lối của Đảng còn nhiều hạn chế, hiệu quả chưa cao. Các quy định về thẩm quyền, trách nhiệm của các cơ quan, tổ chức trong hệ thống chính trị đối với hoạt động thể chế hóa vẫn chưa đầy đủ, chưa thực sự quy định rõ trách nhiệm từng chủ thể.
Thứ ba, mâu thuẫn giữa yêu cầu trách nhiệm càng cao của người đứng đầu địa phương, đơn vị và cấp ủy với quyền hạn của người đứng đầu và phân quyền của người đứng đầu trên thực tế.
Yêu cầu trách nhiệm ngày càng cao đòi hỏi người đứng đầu phải xác định thật rõ cơ chế trách nhiệm và chỗ đứng trong tập thể cấp ủy, tổ chức đảng, chính quyền, đoàn thể và cơ quan, đơn vị; phân biệt rạch ròi quyền và trách nhiệm của mình, mối quan hệ giữa cá nhân và tập thể ban lãnh đạo.
Tuy nhiên, trong khi trách nhiệm càng cao thì việc phân quyền cho người lãnh đạo còn có lúc chưa tương xứng. Nguyên tắc thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách nhiều khi dẫn đến tình trạng: giao cho tập thể quá nhiều quyền hạn trong khi quyền cho cá nhân người đứng đầu lại chưa đủ để có thể quyết định, quyết đoán những vấn đề nảy sinh trong điều hành công tác. Bên cạnh một số trường hợp người đứng đầu phớt lờ, thậm chí vô hiệu hoá sự lãnh đạo của tập thể, cấp ủy thì cũng có những trường hợp tập thể dùng “quyền lực số đông” để kiềm hãm những cá nhân lãnh đạo đổi mới, sáng tạo, dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm.
Thứ tư, mâu thuẫn giữa yêu cầu đổi mới, sáng tạo để hoàn thành nhiệm vụ cách mạng hiện nay với bảo vệ cán bộ dám nghĩ, dám làm.
Đổi mới, sáng tạo chính là động lực phát triển, là nhân tố quan trọng đem lại những chuyển biến mạnh mẽ, tích cực; là yêu cầu đặt ra trong giai đoạn hiện nay để hoàn thành nhiệm vụ cách mạng. Quy định về bảo vệ cán bộ dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm đã được ban hành. Quy định về kỷ luật đảng cũng nêu rõ: Đảng viên thực hiện đề xuất về đổi mới, sáng tạo được cơ quan có thẩm quyền cho phép nhưng xảy ra thiệt hại thì cơ quan có thẩm quyền xác định nguyên nhân, đánh giá toàn diện; nếu đã thực hiện đúng chủ trương, có động cơ trong sáng, vì lợi ích chung thì miễn hoặc giảm nhẹ trách nhiệm.
Tuy nhiên, đổi mới, sáng tạo, nhất là đột phá vào những nội dung không còn phù hợp trong các quy định của Đảng và Nhà nước là vấn đề rất nhạy cảm. Những mâu thuẫn giữa mới và cũ, giữa năng động sáng tạo nhưng có thể sai và an toàn là những mâu thuẫn thực tiễn. Do đó, việc cấp ủy có ý kiến phân tán, không thống nhất rất dễ xảy ra và chính quy định về việc người đứng đầu có thể sử dụng quyền tự quyết đối với ý tưởng đổi mới, sáng tạo khi cấp ủy không đồng thuận, có ý kiến trái ngược, nhưng phải báo cáo lên cấp trên cũng là một biểu hiện của dám nghĩ, dám làm và dám chịu trách nhiệm của người đứng đầu cần phải giải quyết tốt trong mối quan hệ giữa tập thể lãnh đạo với cá nhân phụ trách. Ngoài ra, đổi mới, sáng tạo, dám nghĩ, dám làm trong giới hạn nhất định cũng là một mâu thuẫn cần giải quyết để bảo vệ cán bộ. Theo Quy định của Đảng là không được xâm phạm chủ quyền, an ninh quốc gia và đe dọa sự tồn vong của Đảng, chế độ, vậy những đổi mới, sáng tạo ngoài khuôn khổ các quy định hiện hành nhưng không trái Điều lệ Đảng và Hiến pháp có thể được bảo vệ hay không, khi mà “khung” tiêu chí để đánh giá giới hạn này khá rộng và liệu có vi phạm nguyên tắc tổ chức đảng và đảng viên hoạt động trong khuôn khổ pháp luật hay không.
Thứ năm, mâu thuẫn giữa yêu cầu giữ gìn đạo đức cách mạng trong sáng với chủ nghĩa cá nhân hiện nay.
Bên cạnh những đảng viên không ngừng phấn đấu, rèn luyện, trau dồi phẩm chất đạo đức, vẫn còn một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên phai nhạt lý tưởng, suy thoái, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”. Đặc biệt nguy hiểm là những biểu hiện của chủ nghĩa cá nhân, vị kỷ, vụ lợi, chạy theo các giá trị vật chất; thờ ơ, lảng tránh trách nhiệm với Đảng, Tổ quốc và nhân dân; kèn cựa địa vị, chạy chức tranh quyền diễn ra ngày càng phức tạp, biến tướng dưới nhiều hình thức. Dù đã đạt được những kết quả quan trọng bước đầu trong công tác đấu tranh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực nhưng “Tham nhũng vẫn là một trong những nguy cơ đe dọa sự tồn vong của Đảng và chế độ ta”(1).
Giữ gìn đạo đức cách mạng trong sáng là yêu cầu đối với đảng viên, nhất là cán bộ lãnh đạo, quản lý, bởi đây là những chủ thể thực hiện quyền lực, mà tham nhũng, tiêu cực là “khuyết tật của quyền lực”. Vì thế, để giải quyết được mâu thuẫn này, Đảng phải không ngừng kiên quyết, kiên trì thực hiện có chất lượng, hiệu quả mục tiêu, giải pháp đã đề ra: “Xây dựng Nhà nước và hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh toàn diện, hoàn thiện cơ chế kiểm soát chặt chẽ quyền lực...”(2).
Thứ sáu, mâu thuẫn giữa ý chí, khát vọng, lý tưởng cách mạng hiện nay với những hạn chế trong nêu gương của đảng viên.
“Đảng lãnh đạo bằng cương lĩnh, chiến lược, các định hướng về chính sách và chủ trương lớn; bằng công tác tuyên truyền, thuyết phục, vận động, tổ chức, kiểm tra và bằng hành động gương mẫu của đảng viên”(3). Theo đó, nêu gương là một trong những phương thức lãnh đạo của Đảng; để được nhân dân tin yêu, để xứng đáng với vai trò lãnh đạo, đội ngũ cán bộ, đảng viên phải thực sự tiên phong, gương mẫu cả về phẩm chất, nhân cách, đạo đức, tri thức..., luôn đặt lợi ích của nhân dân lên trên hết, trước hết, làm tròn bổn phận mà Đảng và nhân dân giao phó.
Đảng viên không thể nêu gương khi lý tưởng cách mạng, ý chí, khát vọng cống hiến phai nhạt; khi không thật sự mẫu mực trong lời nói, việc làm, trong rèn luyện, tu dưỡng, giữ gìn phẩm chất, đạo đức, lối sống; khi còn có những biểu hiện chủ nghĩa cá nhân, lợi dụng chức vụ, quyền hạn để trục lợi, có hành vi tham nhũng, tiêu cực. Thực tiễn thời gian qua, một số cán bộ, trong đó có cán bộ cấp cao suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”, phải xử lý kỷ luật đảng, truy cứu trách nhiệm hình sự... không chỉ gây dư luận bức xúc trong dư luận xã hội, mà còn là “tác nhân” ảnh hưởng tiêu cực đến phương thức lãnh đạo bằng nêu gương mà Đảng đã đề ra.
Thứ bảy, mâu thuẫn giữa yêu cầu xây dựng Đảng và hệ thống chính trị với sự chống phá của các thế lực thù địch, nhất là âm mưu “Diễn biến hòa bình”, thúc đẩy “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ.
Hiện nay, bên cạnh những thời cơ, thuận lợi để phát triển, chúng ta cũng đang phải đối mặt với không ít khó khăn, thách thức, trong đó “bốn nguy cơ mà Hội nghị đại biểu toàn quốc giữa nhiệm kỳ khóa VII của Đảng (năm 1994) nêu lên vẫn tồn tại, có mặt diễn biến phức tạp”, trong đó có âm mưu, thủ đoạn chống phá của các thế lực phá hoại, phản động. Các đối tượng thù địch vẫn ra sức thực hiện chiến lược “diễn biến hòa bình” để chống phá cách mạng Việt Nam trên tất cả các lĩnh vực chính trị - tư tưởng, kinh tế, văn hóa - xã hội, quốc phòng - an ninh, đối ngoại... hòng tiến tới mục tiêu làm sụp đổ chế độ XHCN, xóa bỏ vai trò cầm quyền của Đảng Cộng sản Việt Nam.
Có thể thấy, âm mưu “diễn biến hòa bình” và “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ có mối liên hệ chặt chẽ. Trong đó thúc đẩy “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” vừa là thủ đoạn, vừa là mục tiêu của chiến lược của “diễn biến hòa bình”. Nếu không được ngăn chặn kịp thời sẽ dẫn đến sự suy thoái của tổ chức, về lâu dài sẽ dẫn đến “chuyển màu” hệ tư tưởng và chế độ chính trị - một mâu thuẫn nghiêm trọng với mục tiêu xây dựng Đảng và hệ thống chính trị trong sạch vững mạnh và sự nghiệp cách mạng mà Đảng ta đang kiên trì thực hiện.
Do đó, nâng cao năng lực lãnh đạo, cầm quyền của Đảng hiện nay phải gắn với đấu tranh làm thất bại âm mưu, thủ đoạn “diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch; ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ. Đây là giải pháp quan trọng, chiến lược lâu dài đối với sự nghiệp cách mạng của Đảng và sự tồn vong của chế độ; là nhiệm vụ của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân và của cả hệ thống chính trị, đặt dưới sự lãnh đạo trực tiếp, thường xuyên của Đảng.
MỘT SỐ GIẢI PHÁP ĐỀ XUẤT
Việc giải quyết những mâu thuẫn nêu trên cũng chính là nhiệm vụ quan trọng của Đảng trong giai đoạn hiện nay. Những giải pháp tham khảo chúng tôi đề xuất như sau:
Một là, thường xuyên và thực chất “tự soi và tự sửa”; quyết liệt và kiên trì chống suy thoái về đạo đức, lối sống.
Các cấp ủy, tổ chức đảng từ Trung ương đến cơ sở thường xuyên, nghiêm túc “tự soi, tự sửa” nhằm ngăn chặn kịp thời các biểu hiện suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ. Qua đó, xây dựng đảng bộ và hệ thống chính trị vững mạnh, khắc phục những hạn chế, thiếu sót; nêu cao tinh thần trách nhiệm, gương mẫu đi đầu trong mọi hoạt động của đội ngũ cán bộ, đảng viên. “Một Đảng mà giấu giếm khuyết điểm của mình là một Đảng hỏng. Một Đảng có gan thừa nhận khuyết điểm của mình, vạch rõ những cái đó, vì đâu mà có khuyết điểm đó, xét rõ hoàn cảnh sinh ra khuyết điểm đó, rồi tìm mọi cách sửa chữa khuyết điểm đó, như thế mới là một Đảng tiến bộ, mạnh dạn, chắc chắc, chân chính”(4).
Cần phải “tự soi” kịp thời, thường xuyên “như rửa mặt hằng ngày” để ngăn chặn các vấn đề tiêu cực manh nha nảy sinh. Đồng thời phải tích cực, khẩn trương “tự sửa” khi “soi” thấy những khuyết điểm, hạn chế. Theo đó, giải pháp sửa phải mang tính khả thi, không chung chung; phải thực sự là “thuốc đặc trị” - chữa dứt điểm “bệnh” suy thoái và những biểu hiện gây ảnh hưởng đến uy tín của tổ chức. Thực hiện nghiêm túc “tự soi, tự sửa” sẽ góp phần xây dựng tập thể Đảng và hệ thống chính trị các cấp đoàn kết, thống nhất và lãnh đạo cơ quan, đơn vị hoàn thành tốt nhiệm vụ.
Hai là, nâng cao trình độ nhận thức và năng lực tổ chức hoạt động của đảng viên; xây dựng đội ngũ cán bộ của Đảng và hệ thống chính trị đủ năng lực, phẩm chất.
Phải xây dựng được một đội ngũ cán bộ có Tâm - Tài - Tầm. Theo đó, cán bộ phải trong sáng về lối sống, trung thực, nhiệt huyết trong công việc, hết lòng phục vụ nhân dân; sẵn sàng hy sinh lợi ích cá nhân vì lợi ích chung của tập thể, tổ chức; luôn “tự soi tự sửa” để tránh sa vào chủ nghĩa cá nhân. Cùng với đó, cán bộ phải có chuyên môn, nghiệp vụ khá và giỏi; không ngừng trau dồi, nâng cao tri thức, năng lực trình độ để đáp ứng yêu cầu trong tình hình mới. Đồng thời có tầm nhìn chiến lược trong thực hiện nhiệm vụ, hoạch định chính sách, thấu hiểu tâm tư, nguyện vọng của nhân dân để phục vụ nhân dân ngày một tốt hơn.
Cán bộ vừa là người tham gia xây dựng chính sách, đồng thời là người triển khai và hướng dẫn nhân dân thực hiện. Do đó phải chút trọng hơn nữa xây dựng đội ngũ cán bộ, nhất là cán bộ lãnh đạo chủ chốt và người đứng đầu các cấp, đủ năng lực và phẩm chất; thường xuyên nâng cao bản lĩnh chính trị, nâng cao tính tiền phong gương mẫu, vì nhân dân phục; phải hướng tới thực hiện cho được phương châm “dám nghĩ, dám nói, dám làm, dám chịu trách nhiệm, dám đổi mới, sáng tạo, dám đương đầu với khó khăn, thử thách và dám hành động vì lợi ích chung”.
Đẩy mạnh việc thực hiện có hiệu quả Quy định 114-QĐ/TW, ngày 11/7/2023 của Ban Chấp hành Trung ương về “Kiểm soát quyền lực và phòng, chống tham nhũng, tiêu cực trong công tác cán bộ”; tiếp tục hiện thực hóa Nghị định số 73/2023/NĐ-CP ngày 29/9/2023 của Chính phủ Quy định về “Khuyến khích bảo vệ cán bộ năng động, sáng tạo, dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm vì lợi ích chung”; triển khai tích cực Quy định số 144-QĐ/TW ngày 9/5/2024 của Bộ Chính trị về “Chuẩn mực đạo đức cách mạng của cán bộ, đảng viên trong giai đoạn mới”...
Ba là, giáo dục đạo đức cách mạng để xây dựng tình cảm lớn cho đảng viên.
Đại hội XIII của Đảng xác định “phải đặc biệt coi trọng và đẩy mạnh hơn nữa xây dựng, chỉnh đốn Đảng toàn diện về chính trị, tư tưởng, đạo đức, tổ chức và cán bộ”. Thực hiện tốt nội dung xây dựng Đảng về đạo đức sẽ góp phần ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ; xây dựng đội ngũ cán bộ, nhất là đội ngũ cán bộ cấp chiến lược, đủ năng lực, phẩm chất và uy tín, ngang tầm nhiệm vụ, bảo đảm cho Đảng vững mạnh toàn diện.
Để tăng cường giáo dục và rèn luyện đạo đức cách mạng cho đội ngũ cán bộ, đảng viên, cần đặc biệt quan tâm đến một số nội dung sau: 1) Cán bộ, đảng viên phải tự giác học tập và tu dưỡng, rèn luyện đạo đức cách mạng theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh. 2) Tiếp tục thực hiện tốt Nghị quyết Trung ương 4 khóa XI, XII; quán triệt và thực hiện nghiêm túc Kết luận số 21-KL/TW ngày 25/10/2021 của Ban Chấp hành Trung ương về “Đẩy mạnh xây dựng, chỉnh đốn Đảng và hệ thống chính trị; kiên quyết ngăn chặn, đẩy lùi, xử lý nghiêm cán bộ, đảng viên suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa””. 3) Tăng cường kỷ luật của Đảng và thực hiện nghiêm minh pháp luật của Nhà nước. 4) Phát huy vai trò của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các tổ chức chính trị - xã hội và các tầng lớp nhân dân trong giám sát cán bộ, công chức, phát huy mặt tích cực của dư luận xã hội, các phương tiện thông tin đại chúng trong việc đấu tranh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực. 5) Nêu gương sáng, giáo dục, bồi dưỡng lòng yêu nước, yêu Đảng, yêu CNXH bằng các hình thức sinh động, thực tiễn, tránh lý luận giáo điều.
Bốn là, tăng cường công tác thể chế hóa chủ trương, đường lối của Đảng thành pháp luật.
Để đạt được mục tiêu “Nâng cao năng lực tổ chức thực hiện chủ trương, đường lối của Đảng, nhất là thể chế hóa, cụ thể hóa thành luật và các văn bản dưới luật; tạo chuyển biến thực sự, đạt kết quả cao trong thực hiện chủ trương, đường lối của Đảng ở các cấp”(5), cần quan tâm thực hiện tốt các biện pháp sau:
1) Xác định cơ sở chính trị nền tảng cho việc thể chế hóa đường lối của Đảng. Chủ trương, định hướng lớn, đúng đắn của Đảng là căn cứ, cơ sở để Nhà nước và xã hội thể chế hóa, cụ thể hóa và tổ chức thực hiện. Pháp luật có tính dự báo nhưng không thể đi trước đường lối chính trị. Do đó, Bộ Chính trị cần kịp thời đề ra đường lối chiến lược về những vấn đề, nội dung quan trọng của đất nước, đồng thời không ngừng bổ sung, điều chỉnh, phát triển đường lối và định hướng về chính sách theo tình hình thực tiễn.
2) Xác định thẩm quyền, trách nhiệm của các cơ quan, tổ chức trong hệ thống chính trị đối với hoạt động thể chế hóa. Mỗi chủ thể cần thực hiện đầy đủ trách nhiệm đối với công tác xây dựng pháp luật, hoàn thiện thể chế, đồng thời cần có sự phối hợp chặt chẽ giữa Đảng đoàn Quốc hội, Ban Cán sự Đảng Chính phủ, Ban Cán sự Đảng Tòa án nhân dân tối cao, Ban Cán sự Đảng Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Đảng đoàn Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các cấp ủy, chính quyền địa phương.
Chú trọng công tác kiểm tra, giám sát việc thực hiện thể chế hóa của các chủ thể có thẩm quyền, trách nhiệm, đồng thời gắn với sơ kết, tổng kết kết quả thể chế hóa chủ trương của Đảng thành pháp luật của Nhà nước. Đánh giá đầy đủ, khách quan kết quả, hiệu quả hoạt động lãnh đạo, chỉ đạo của các cơ quan lãnh đạo đối với công tác thể chế hóa. Kịp thời biểu dương, khen thưởng các cơ quan, tổ chức thực hiện có hiệu quả việc thể chế hóa đường lối của Đảng thành pháp luật của Nhà nước. Xử lý nghiêm khi phát hiện những trường hợp lợi dụng việc thể chế hóa để cài cắm các nội dung lợi ích nhóm, lợi ích địa phương...
3) Phát huy vai trò của cấp ủy cấp tỉnh trong công tác lãnh đạo thực hiện thể chế hóa chủ trương của Đảng thành pháp luật ở địa phương. Thể chế hóa chủ trương, đường lối của Đảng thành pháp luật từ trước đến nay vẫn thường được hình dung gắn với Quốc hội, Chính phủ với kết quả thể chế hóa là Luật, Pháp lệnh, Nghị định... với phạm vi điều chỉnh rộng trong cả nước. Công tác thể chế hóa chủ trương, đường lối của Đảng thành nghị quyết của Hội đồng nhân dân (HĐND) và quyết định, chỉ thị của Ủy ban nhân dân (UBND) chưa được nhiều địa phương chú trọng. Vì vậy, các cấp ủy địa phương cần lãnh đạo chính quyền cùng cấp làm tốt công tác thể chế hóa, cụ thể hóa đường lối của Đảng, nghị quyết của cấp ủy địa phương thành các chương trình, kế hoạch để nhân dân địa phương thực hiện. Thực hiện tốt công tác thể chế hóa mang lại hiệu quả tích cực, một mặt tác động đến chất lượng các nghị quyết của cấp ủy địa phương, vừa đúng chủ trương, đường lối của Đảng, vừa phát huy được thế mạnh của địa phương, tránh tình trạng sao chép, rập khuôn; mặt khác tác động đến công tác xây dựng và tổ chức thực hiện các văn bản quy phạm pháp luật của chính quyền địa phương gắn với chủ trương của Đảng và tình hình địa phương, nâng cao được tính phù hợp và tính khả thi của pháp luật.
Mỗi địa phương sẽ có những đặc thù khác nhau nên chủ trương, đường lối lãnh đạo phải sâu sát tình hình, phù hợp đặc thù, phát huy thế mạnh riêng. Tuy nhiên, những đặc thù này sẽ đặt ra thách thức cho công tác thể chế hóa ở địa phương ở chỗ, trong xây dựng và thực hiện pháp luật phải tuân theo nguyên tắc pháp chế, đó là pháp luật phải được hiểu và thực hiện giống nhau ở các địa phương, không có đặc quyền, ngoại lệ. Do đó cấp ủy địa phương cần lãnh đạo HĐND và UBND tăng cường trách nhiệm, thực sự tâm huyết, trăn trở với sự phát triển của địa phương để từ đó phát huy tính chủ động, sáng tạo, thể chế hóa chủ trương, đường lối của Đảng thành pháp luật, sao cho vừa đặc thù mà vừa không vi hiến, góp phần nâng cao năng lực lãnh đạo của cấp ủy địa phương, tạo cơ sở chính trị - pháp lý cho địa phương phát triển.
4) Phát huy vai trò của đảng viên là đại biểu Quốc hội, đại biểu HĐND và cán bộ tham gia vào quá trình lập pháp, lập quy và tổ chức thực hiện pháp luật. Đảng lãnh đạo thông qua tổ chức đảng và đảng viên hoạt động trong hệ thống chính trị, thông qua các đảng viên là đại biểu Quốc hội, đại biểu HĐND và cán bộ, đảng viên tham gia vào quy trình xây dựng, ban hành văn bản quy phạm pháp luật, tổ chức thực hiện pháp luật để nâng cao chất lượng thể chế hóa. Đội ngũ cán bộ, đảng viên nắm trọng trách trong xây dựng pháp luật giữ vai trò quyết định trong việc thể chế hóa, quyết định việc thể chế hóa nhanh, đúng, khả thi các chủ trương, đường lối của Đảng, bảo đảm chất lượng của pháp luật. Vì vậy, cần quan tâm nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, đảng viên và phát huy vai trò của đảng viên trong thể chế hóa chủ trương, đường lối của Đảng thành pháp luật, trước hết cần tập trung lãnh đạo, chỉ đạo công tác bầu cử đại biểu Quốc hội và HĐND các cấp, nâng cao chất lượng đội ngũ đại biểu chuyên trách.
Đảng giới thiệu những đảng viên ưu tú ứng cử vào các chức danh chủ chốt của bộ máy nhà nước, vào các cơ quan thực hiện nhiệm vụ soạn thảo, thẩm định các dự luật để đảm bảo mọi tổ chức và hoạt động của các cơ quan đó thực hiện đúng quan điểm, chủ trương của Đảng. Cấp ủy đảng các cấp cần coi trọng đúng mức việc xây dựng, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ này, bồi dưỡng và bố trí công tác tương xứng với vai trò, nhiệm vụ được giao.
Đảng viên thực hiện vai trò đại biểu dân cử tích cực nêu gương trong thực thi nhiệm vụ, trong xây dựng pháp luật, phải đặt lợi ích quốc gia và dân tộc lên hàng đầu, lấy quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của nhân dân làm trọng tâm; chống tiêu cực, lợi ích nhóm, lợi ích cục bộ trong xây dựng pháp luật; nâng cao năng lực, trình độ và kỹ năng lập pháp hiện đại, chuyên nghiệp, khoa học.
Năm là, đổi mới tư duy theo hướng quản trị quốc gia, quản trị địa phương thông minh, đổi mới sinh thái.
Đổi mới nội dung, phương thức lãnh đạo của Đảng trong giai đoạn hiện nay cần tiếp cận theo hướng quản trị công hiện đại. Đảng cũng là một tổ chức thực hiện hoạt động quản trị, những giá trị hiện đại của quản trị thông minh, kết nối các hệ sinh thái quản trị cần được nhìn nhận, tiếp thu và ứng dụng trong hoạt động lãnh đạo, cầm quyền của Đảng.
Tuy nhiên, là một vấn đề còn nhiều mới mẻ ở Việt Nam, quản trị quốc gia, quản trị địa phương thông minh cần được đổi mới theo hướng đổi mới tư duy trước, tiếp cận thực tiễn có lộ trình. Trước mắt cần chú trọng đẩy mạnh cải cách hành chính, đổi mới phong cách lãnh đạo, phương pháp công tác, lề lối làm việc của các cơ quan lãnh đạo của Đảng từ Trung ương tới cơ sở, bảo đảm khoa học, dân chủ, sâu sát, cụ thể. Sửa đổi, bổ sung, hoàn thiện quy chế làm việc của cấp ủy, tổ chức đảng các cấp, quy định chặt chẽ nhiệm vụ, quyền hạn, mối quan hệ, quy trình công tác, khắc phục tình trạng bao biện, làm thay, vi phạm nguyên tắc tập trung dân chủ, áp đặt hoặc buông lỏng vai trò lãnh đạo của cấp ủy, tổ chức đảng.
Hệ thống hóa hệ thống văn bản của Đảng bảo đảm khoa học, thực tiễn, hệ thống, chặt chẽ. Đổi mới, nâng cao chất lượng học tập, quán triệt chủ trương, đường lối của Đảng theo hướng mở rộng đối tượng tham gia, hình thức linh hoạt, phù hợp, tăng cường hội nghị chuyên đề trên các lĩnh vực, sử dụng hài hòa hình thức trực tuyến với trực tiếp và tuyên truyền miệng.
Đẩy mạnh cải cách hành chính, ứng dụng công nghệ thông tin, chuyển đổi số trong các cơ quan, tổ chức của hệ thống chính trị từ Trung ương đến địa phương; xây dựng cơ sở dữ liệu tổ chức cơ sở đảng, đảng viên và văn kiện của Đảng, kết nối từ Trung ương tới cơ sở. Từng bước xây dựng và áp dụng tiêu chí, chỉ số quản trị công vào công tác lãnh đạo của Đảng. Ứng dựng chuyển đổi số vào công tác lãnh đạo của Đảng.
Từ vai trò lãnh đạo của mình, Đảng đã đưa ra định hướng, mục tiêu, nhiệm vụ phát triển đất nước, đồng thời cũng là chủ thể lãnh đạo tổ chức thực hiện đường lối, chính sách trong thực tế quản trị quốc gia, những vấn đề quan trọng nhất, như định hướng, mục tiêu phát triển đất nước, các vấn đề quốc kế dân sinh, chính sách đối ngoại... đều được Đảng đưa ra bàn bạc, thảo luận, thông qua tại các kỳ đại hội và thể chế hóa thành pháp luật. Đây thực chất là những chức năng của quản trị quốc gia mà Đảng đã thực hiện trong suốt quá trình cầm quyền. Do đó, cần tiếp tục đổi mới thể chế quản trị, nhận thức về vị trí, vai trò lãnh đạo của Đảng, đồng thời tham khảo, tiếp thu chọn lọc những kinh nghiệm của thế giới trên cơ sở phù hợp với truyền thống, lịch sử, chế độ chính trị, bản sắc văn hóa và đặc điểm kinh tế - xã hội của nước ta để đổi mới tư duy về quản trị quốc gia, quản trị địa phương của Đảng. Với vị trí lãnh đạo Nhà nước và xã hội, đồng thời là chủ thể thực hiện chức năng hoạch định trong quản trị quốc gia, sự lãnh đạo của Đảng là điều kiện tiên quyết bảo đảm sự thành công của quá trình đổi mới quản trị quốc gia ở nước ta./.
PGS. TS. NGUYỄN QUỐC DŨNG
Giám đốc Học viện Chính trị khu vực II
_________________________
(1) (2) Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, H, 2021, t.I, tr.92-93, 95-96.
(3) Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb. Chính trị quốc gia, H, 2011, tr. 88-89.
(4) Hồ Chí Minh, Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, H, 2011, t.5, tr.301.
(5) Nghị quyết số 28-NQ/TW ngày 17/11/2022 Hội nghị Trung ương 6 Khóa XIII về “Tiếp tục đổi mới phương thức lãnh đạo, cầm quyền của đảng đối với hệ thống chính trị trong giai đoạn mới”.
- Nhận diện thủ đoạn “diễn biến hoà bình” chống phá nền tảng tư tưởng của Đảng và nhiệm vụ của cán bộ, giảng viên, sinh viên Trường Đại học CSND góp phần bảo vệ nền tảng, tư tưởng của Đảng (16.10.2024)
- Mối quan hệ giữa Mặt trận Việt Nam với nhân dân, các tổ chức trong hệ thống chính trị và đời sống xã hội (14.10.2024)
- Lịch sử phát triển của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam (10.10.2024)
- Xử lý vi phạm pháp luật về giao thông “không có vùng cấm, không có ngoại lệ” (05.10.2024)
- 11 năm Ngày mất của Đại tướng Võ Nguyên Giáp (4-10-2013/ 4-10-2024): Suốt cuộc đời quán triệt tinh thần “Dĩ công vi thượng” (04.10.2024)
- Phát huy “thế trận lòng dân” trong công tác PCCC và CNCH góp phần giữ vững ANTT và an sinh xã hội (04.10.2024)
- Phản bác những hoạt động lợi dụng vấn đề tôn giáo nhằm chia rẽ khối đại đoàn kết toàn dân tộc gây mất ổn định an ninh trật tự hiện nay (27.09.2024)
- Để không ai bị bỏ lại phía sau (24.09.2024)
- Một số nội dung đáng chú ý tại Luật sửa đổi luật Cảnh vệ năm 2024 (24.09.2024)